·Phần giới thiệu
·Những căng thẳng của phân đoạn Kinh Thánh
·Tiếp cận với bài học nầy
·Ý nghĩa của “Con Ta” trong Cựu ước
·Gia phổ của Đấng Christ (3.23-28).
·Vai trò của phép báptêm và gia phổ trong Tin lành Luca
·Phần kết luận
BÀI
8
PHÉP BÁPTÊM VÀ GIA PHỔ CỦA CHÚA JÊSUS
(Luca 3.21-38;
I Samuên 16.1-13; II Samuên 7.8-13)
Phần giới thiệu
Cách đây hai năm, chúng tôi có xử lý
một chuyện rắc rối với hệ thống điện thoại. Với sự rạn nứt của hệ thống, mọi người
dường như muốn trút đổ trách nhiệm sửa chữa nan đề lên nhóm khác. Sau cùng với
sự thất vọng, tôi đã gọi điện cho một người bạn đang làm việc cho một công ty điện
thoại, cốt ý để tìm ra người đến giúp đỡ mà thôi. Trong một vấn đề chi ly, đã
có những người giám sát trên tuyến và mọi việc thực sự bắt đầu xảy ra. Không
bao lâu, một nhân viên giám sát đến từ một thị trấn khác đã có mặt tại văn
phòng làm việc của tôi, chỉ để quyết chắc với tôi là nhân viên sửa chữa đang tiến
hành công việc, và nan đề đã được quyết toán trong đêm đó.
Vấn đề hiện
ra rất rõ ràng cho tôi: bạn tôi là một người có ảnh hưởng và địa vị cao trong
công ty điện thoại. Khi tôi hỏi nhân viên giám định bạn tôi làm gì trong công
ty, anh ta đáp: “Khi họ gọi cho chúng tôi, chúng
tôi liền bỏ mọi việc đang làm và làm ngay những gì họ bảo”. Địa vị của
một người và quyền lực của một người có nhiều việc phải làm với những gì người ấy
[nam hay nữ] có khả năng phải hoàn thành.
Cũng một thể
ấy với Đức Chúa Jêsus Christ của chúng ta. Từ mọi thể diện bên ngoài, Chúa
chúng ta là một người chẳng có quyền hạn hay địa vị gì lớn lao trong cuộc sống.
Ngài ra đời trong một gia đình nghèo, như các hoàn cảnh trong sự Ngài ra đời
cho thấy rất rõ ràng. Ngài hiển nhiên là một người thợ mộc cho tới lúc bắt đầu
chức vụ công khai của Ngài. Nhưng lúc chịu phép báptêm đã có một lời công bố
quan trọng từ chính mình Đức Chúa Trời, lời công bố nầy xác định Đấng Christ là
Vua của dân Ysơraên, và sự đáp đậu của Đức Thánh Linh ngay thời điểm nầy mặc
cho Ngài quyền phép để gánh vác chức vụ.
Những căng thẳng của phân đoạn Kinh Thánh
Có lẽ điểm
căng thẳng chính trong phân đoạn Kinh Thánh nầy đã thể hiện ra với sự cần thiết
Giăng đã làm phép báptêm cho Đấng Christ. Quý vị sẽ nhớ lại Giăng đã nhấn mạnh
dứt khoát tính siêu việt của Đấng Mêsi. Một bằng chứng cho điều nầy là tính
siêu việt của phép báptêm Ngài:
“nên Giăng cất tiếng nói
cùng mọi người rằng: Phần ta làm phép báp-tem cho các ngươi bằng nước; song có
một Đấng quyền phép hơn ta sẽ đến, ta không đáng mở dây giày Ngài. Chính Ngài sẽ
làm phép báp-tem cho các ngươi bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa” (Luca 3.16).
Nếu
phép báptêm của Giăng thấp kém hơn phép báptêm của Chúa, thế thì tại sao Chúa
chúng ta không làm phép báptêm cho Giăng, mới đúng hơn là Giăng làm phép báptêm
cho Ngài, y như Giăng đã phản kháng trong câu chuyện của Mathiơ?
Căng
thẳng thứ hai cần phải lo liệu với bản gia phổ của Chúa chúng ta. Không những bản
gia phổ rất khác với bản gia phổ trong câu chuyện của Mathiơ, mà nó cũng được xếp
đặt rất khác biệt nữa. Luca đưa bản gia phổ ra ngay sau khi Chúa chịu phép
báptêm, và ngay trước khi Ngài bắt đầu chức vụ công khai. Câu chuyện của Mathiơ
đặt bản gia phổ ngay phần đầu tin lành của ông.
Tiếp cận với bài học nầy
Trong
bài học nầy chúng ta sẽ tìm cách tiếp thu ý nghĩa các sự cố trong phép báptêm của
Chúa chúng ta, và cũng tiếp thu ý nghĩa bản gia phổ của Ngài, khi được Luca đặt
kiên kết với phép báptêm của Ngài. Chúng ta sẽ tìm cách hiểu rõ ý nghĩa mọi sự
nầy trong sự kết hợp với chức vụ của Chúa chúng ta. Chúng ta cũng sẽ cố gắng
xác định phần đóng góp của Luca có ý nghĩa như thế nào qua tin lành của ông.
Sau cùng, chúng ta sẽ tìm cách tiếp thu ý nghĩa và mọi hàm ý trong phép báptêm và
bản gia phổ của Chúa dành cho chúng ta.
Ý nghĩa của “Con Ta” trong Cựu ước
Chìa
khoá cho sự hiểu biết phép báptêm của Chúa được thấy trong ý nghĩa của thuật ngữ
“Con Ta”
trong Kinh Thánh. Thuật ngữ có quan hệ trực tiếp với sự Đức Chúa Trời chọn lựa và
chỉ định vua của dân Ysơraên. Chúng ta hãy tra xét quan niệm về “địa vị con” đã được phát triển trong Cựu ước.
I Samuên 9-10
Vị vua đầu
tiên của dân Ysơraên là Saulơ. Mặc dù đã bị cảnh cáo trước về cái giá rất cao của
một vì vua, dân Ysơraên đã đòi hỏi một vị vua, giống như mọi dân khác đã có (đối
chiếu I Samuên 8). Đức Chúa Trời đã chấp thuận lời thỉnh cầu của dân Ysơraên
và chính phần việc của Samuên, là thầy tế lễ phải chọn lựa nhà vua sẽ là người
nào. Trong I Samuên 9-10 toàn bộ quá trình đã được mô tả từng chi tiết. Saulơ
cùng tôi tớ phải lặn lội tìm kiếm bầy lừa của cha mình bị thất lạc, rồi ngẫu
nhiên gặp gỡ Samuên, ông đã xức dầu cho Saulơ, chọn ông làm người cai trị dân
Ysơraên (I Samuên 10.1). Sau đó một thời gian ngắn, Đức Thánh Linh đã
giáng trên Saulơ (10.6-13), mặc lấy cho ông quyền phép để làm vua.
I
Samuên 16
Saulơ
căn cứ theo sự bất tuân của ông, đã bị chối bỏ không còn làm vua trên Ysơraên nữa,
và người khác đã được ấn định để thay thế cho ông. Không những Saulơ bị truất
phế, mà triều đại của ông cũng bị khước từ luôn, thật là cần thiết cho Đức Chúa
Trời phải chọn lựa qua Samuên ai sẽ là vị tân vương. Câu chuyện nói về sự chọn
lựa nầy được thấy trong I Samuên 16. Sau khi thẩm định tại chỗ hết thảy mấy người
anh của Đavít và biết rõ ràng chẳng có ai trong số họ sẽ làm vua, Đavít đã được
triệu tới và được xức dầu trước sự hiện diện của các anh mình là vị tân vương của
dân Ysơraên, ngay thời điểm ấy Đức Thánh Linh cũng giáng trên chính mình ông (16.13).
II Samuên 7
Sau
đó, Đức Chúa Trời đã lập một giao ước với “triều đại”
Đavít, ai cũng biết đây là Giao ước với Đavít:
“Vậy bây giờ, ngươi hãy nói cùng Đa-vít,
kẻ tôi tớ ta, như vầy: ĐỨC GIÊ-HÔ-VA vạn quân có phán như vầy: Ta đã gọi ngươi
từ giữa đồng cỏ, từ nơi ngươi chăn chiên, đặng lập ngươi làm kẻ dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên
của ta. Ta đã ở cùng ngươi trong mọi công việc ngươi làm, tuyệt diệt các kẻ thù
nghịch ngươi khỏi trước mặt ngươi, khiến cho ngươi được danh lớn như danh người
sang trọng của thế gian. Ta đã sắm sẵn một chỗ cho dân Y-sơ-ra-ên ta, làm cho
nó châm rễ tại đó, và nó sẽ ở nơi mình, chẳng còn bị quấy rối nữa; các con loài
ác sẽ chẳng hà hiếp nó nữa như ngày xưa, tức là như lúc ta lập quan xét trị dân
Y-sơ-ra-ên ta. Ta đã giải cứu ngươi khỏi các thù nghịch ngươi mà ban bình an
cho ngươi. Rốt lại, ĐỨC GIÊ-HÔ-VA phán hứa rằng Ngài sẽ dựng cho ngươi một cái
nhà. Khi các ngày ngươi đã mãn, và ngươi ngủ với các tổ phụ ngươi, thì ta sẽ lập
dòng giống ngươi kế vị ngươi, là dòng giống do ngươi sanh ra, và ta sẽ khiến
cho nước nó bền vững. Nó sẽ xây một đền thờ cho danh ta, và ta sẽ khiến cho
ngôi cùng nước nó bền đổ đời đời. Ta sẽ làm cha nó, nó sẽ làm con ta. Nếu nó phạm
tội ác, tất ta sẽ sửa phạt nó bằng roi và thương vít loài người; nhưng ta sẽ
không rút ân điển ta khỏi nó như ta rút khỏi Sau-lơ, là kẻ ta đã trừ diệt khỏi
trước mặt ngươi. Như vậy, nhà ngươi và nước ngươi được bền đổ trước mặt ngươi đời
đời; ngôi ngươi sẽ được vững lập đến mãi mãi” (II Samuên 7.8-16, nhấn mạnh “của
ta”).
Cũng hãy
chú ý mối quan hệ giữa vua Ysơraên và Đức Chúa Trời đã được mô tả là mối quan hệ
giữa cha và con: “Ta sẽ làm cha nó, nó sẽ làm con ta. Nếu nó phạm tội ác, tất
ta sẽ sửa phạt nó bằng roi và thương vít loài người” (câu 14).
Câu nói: “Nó
sẽ làm con ta”, trở thành thuật ngữ khi chọn vua của Ysơraên, như
thấy có trong Thi thiên 2:
“Dầu vậy, ta đã lập Vua ta Trên
Si-ôn là núi thánh ta. Ta sẽ giảng ra mạng lịnh: ĐỨC GIÊ-HÔ-VA phán cùng ta rằng:
Ngươi là Con ta; Ngày nay ta đã sanh Ngươi. Hãy cầu ta, ta sẽ ban cho Con các
ngoại bang làm cơ nghiệp, Và các đầu cùng đất làm của cải. Con sẽ dùng cây gậy sắt mà đập bể chúng nó;
Con sẽ làm vỡ nát chúng nó khác nào bình gốm” (Thi thiên 2.6-9).
“Nầy là Con yêu dấu ta, đẹp lòng ta mọi đàng”.
Vì thế, thuật
ngữ “Ngươi
là Con yêu dấu ta” đang chọn Chúa Jêsus là vua của Ysơraên, là Đấng
Mêsi của Ysơraên. Điều nầy đã được hứa hẹn ngay lúc công bố sự giáng sinh của
Ngài (1.32), và bây giờ Đức Chúa Trời đã công bố y như thế. Thêm nữa,
thuật ngữ “đẹp
lòng ta mọi đàng” cũng có ý nghĩa nhấn mạnh cùng một lẽ thật. Những
câu nói có dụng ý gợi nhớ lại phân đoạn nầy trong lời tiên tri của Êsai:
“Nầy, đầy tớ ta đây, là kẻ ta nâng đỡ; là kẻ ta chọn lựa,
là kẻ mà linh hồn ta lấy làm đẹp lòng. Ta đã đặt Thần ta trên người, người sẽ tỏ
ra sự công bình cho các dân ngoại. Người sẽ chẳng kêu la, chẳng lên tiếng, chẳng
để ngoài đường phố nghe tiếng mình. Người sẽ chẳng bẻ cây sậy đã giập, và chẳng
dụt tim đèn còn hơi cháy. Người sẽ lấy lẽ thật mà tỏ ra sự công bình. Người chẳng
mòn mỏi, chẳng ngã lòng, cho đến chừng nào lập xong sự công bình trên đất; các
cù lao sẽ trông đợi luật pháp người” (Êsai 42.1-4).
Trong lời tiên tri nầy, Đấng Mêsi của
Ysơraên, Tôi Tớ của Đức Chúa Trời, là Đấng mà nơi Người Ngài vui thích, và Ngài
cũng là Đấng mà Thần Linh sẽ đáp đậu trên (42.1).
Bằng chứng để cho thấy bất kỳ một người
nào thích ứng với lời tuyên bố cho Đức Chúa Cha, cùng với sự đáp đậu của Đức
Thánh Linh, đã chỉ định Chúa Jêsus là Vua của Ysơraên, mặc lấy quyền phép cho
Ngài để nhận lấy phần việc hiện đang đặt trước mặt Ngài. Giống như Samuên, Giăng
Báptít đã được ơn để đóng một vai trong việc xác định Chúa Jêsus là Vua của Đức
Chúa Trời. Khi Chúa chúng ta bắt đầu thi hành chức vụ công khai, sự kiện Ngài
là Vua của Ysơraên đã được công nhận. Trong lời lẽ của Nathanaên: “Lạy thầy, thầy
là Con Đức Chúa Trời, thầy là Vua dân Ysơraên!” (Giăng 1.49).
Bản gia phổ của Đấng Christ (3.23-28)
Bản
gia phổ của Chúa chúng ta theo sau ngay lập tức câu chuyện ngắn nói về phép
báptêm của Chúa chúng ta trong sách tin lành Luca. Như chúng ta thấy qua việc
so sánh bản gia phổ của Luca với bản gia phổ của Mathiơ, có những điểm khác biệt.
Không những chúng đã được ở những vị trí khác nhau trong tin lành, mà bản gia
phổ của Luca được ghi từ Đấng Christ trở lại Ađam. Còn Mathiơ thì ghi từ
Ápraham xuống Đấng Christ. Điểm khác biệt lớn nhất: ấy là sau Đavít, nhiều cái
tên cũng khác nhau. Tốt nhất là phải giải thích sự khác biệt bằng cách xem bản
gia phổ của Luca như đang lần theo các tổ phụ phần đời của Đấng Christ qua
Mary, trong khi bản gia phổ của Mathiơ lần theo dấu vết dòng dõi vua chúa của Đấng
Christ qua Giôsép.
Bản
gia phổ của Luca kết thúc với Ađam, “Con Đức Chúa Trời” là tổ phụ đầu tiên. Theo
một ý nghĩa, Ađam và Êva đã đóng vai trò làm “vua” trên
loài thọ tạo, vì họ được dựng nên để “quản trị” trên sự sáng tạo của Đức Chúa Trời
(Sáng thế ký 1.26). Ađam và Êva đã phạm tội, và quyền “quản trị”
của họ bị xóa bỏ đi. Là “Ađam thứ hai”, Đấng Christ sẽ ngự đến tể trị
trên loài thọ tạo của Đức Chúa Trời làm Vua của Ysơraên. Câu chuyện kế tiếp của
Luca là sự thử thách của Đấng Christ, vì sau sự đắc thắng của Chúa đối với những
gạ gẫm của Satan thì Ngài mới được tỏ ra là có “quyền cai trị”. Phép báptêm
của Đấng Christ xác định Đấng Christ làm vua của Ysơraên, và chứng tỏ Ngài là sự
chỉ định của Đức Chúa Cha và được Đức Thánh Linh xức dầu. Bản gia phổ tỏ ra
Chúa thuộc một dòng dõi thích đáng, quả thật Ngài xứng đáng với “Ngôi Đavít”. Sự thử thách minh chứng rằng Chúa chúng ta có đức
tính tin kính để trị vì. Trong mỗi phương cách Luca tỏ ra Chúa chúng ta rất xứng
đáng với phần việc mà Ngài đã được trao phó cho.
Dường
như tin lành Luca đã thiết lập “địa vị Vua của Đấng Christ” theo một phương
thức rất có ý nghĩa cho độc giả dân Ngoại.
Đối với hạng người thính giả Hy lạp
– La mã của câu chuyện Luca gợi lên ám hiệu của người La mã khi sử dụng sự bay
bổng của loài chim chỉ điểm để phân biệt những điều không thể tránh được. Thí dụ,
Plutarch trong việc mô tả thể nào Numa đã được chọn làm vua sau khi Romulus thuật
lại thể nào Numa khẳng định trước khi ông được thừa nhận làm vua uy quyền của
ông phải được thiên đàng phê chuẩn. Vì vậy đầu trưởng của những chiêm tinh gia
mới xây cái đầu có che mạng của Numa về hướng Nam, trong khi ông ta, đứng phía
sau Numa với bàn tay phải đặt trên đầu Numa, cầu nguyện lớn tiếng rồi nhướng mắt
nhìn khắp bốn phía để quan sát coi có loài chim nào hay điềm gì sẽ được các thần
sai tới hay không, khi loài chim bay đến, thì Numa khoác lấy chiếc áo chàng vương
giả của mình và được tiếp nhận như “người yêu dấu
nhất của các thần”. Trong một thế giới đầy tưởng tượng như thế, câu
chuyện của Luca sẽ được xem là một điềm chỉ về thân thế của Chúa Jêsus. Chắc chắn
một thân thế như vậy sẽ được phân biệt từ loài chim, một con chim bồ câu, và giọng
nói giải thích đến từ trời.
Trong phong
tục xưa ở vùng Địa Trung Hải, chim bồ câu là biểu tượng của “ơn phước thiêng liêng trong tình yêu thương”, bản
tính yêu thương của chính sự sống thiêng liêng (E. R. Good enough Jewish
Symbols in the Greco-Roman Period [New York: Pantheon Books, 1953--], VIII:
40-41).
Vai trò của phép báptêm và
bản gia phổ của Luca
Trong
các chương đầu tiên của tin lành Luca, là những chương rất đặc biệt trong việc
kể lại từng chi tiết các sự cố xây quanh sự ra đời của Chúa Jêsus và Giăng
Báptít, Luca đã chỉ ra rằng Đức Chúa Jêsus Christ là “Vua của Ysơraên”. Trong
phép báptêm của Chúa Jêsus, cả Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh đều làm chứng cho
sự kiện nầy. Bản gia phổ cho thấy rằng Đức Chúa Jêsus Christ là một với con người,
và Ngài cũng là dòng dõi của Đavít.
Phần
còn lại của tin lành sẽ đóng vai trò đáp ứng của Ysơraên trước lời xưng nhận của
Đấng Christ là Vua của họ. Ở chương 4, Chúa Jêsus đã tự giới thiệu Ngài là Vua,
lúc đầu được hoan nghênh, nhưng rồi bị chối bỏ khi mọi hàm ý đầy đủ hơn về sự đến
của Ngài được giải thích (Luca 4.16-30). Chúa Jêsus đã tự giới thiệu (y
như các tiên tri Cựu ước đã giới thiệu) là Vua, là Đấng sẽ đến để giải
phóng người bị áp bức và bị chà đạp, kể cả dân Ngoại. Điều nầy quá giản dị đối
với người Do thái, họ tìm cách giết Ngài sau khi nghe lời tự xưng nhận nầy (Luca
4.23-29).
Trong
nhiều cách thức khác nhau, Chúa Jêsus đã thốt ra ý nghĩa về địa vị vua chúa của
Ngài và về vương quốc của Ngài. Bài Giảng Trên Núi là một sự soi sáng cho thấy
nước Trời giống như thế nào (Luca 6). Sự chống đối bắt đầu lớn lên cân xứng
với sự tỉnh thức nhìn biết thể nào là nước của Đấng Christ! Không một ai chối rằng
Chúa có quyền phép, nhưng khi sứ điệp Ngài bắt đầu bị chối bỏ, quyền phép của
Ngài liền bị gán cho Satan. Trước sự kiện nầy, Chúa chúng ta phản ứng: “Nhưng nếu là cậy
ngón tay Đức Chúa Trời mà trừ quỷ, thì nước Đức Chúa Trời đã đến nơi các ngươi
rồi” (Luca 11.20).
Quyền
phép của Đấng Christ là minh chứng cho lời xưng nhận của Ngài là Vua dân Ysơraên.
Cuối cùng, dân Ysơraên đã chối bỏ vị vua của mình. Thậm chí họ đã đóng đinh
Ngài với bản án Ngài tự xưng là Vua của họ (Luca 23.2), và đã chối bỏ
Ngài là Vua của họ bằng câu nói: “Chúng tôi không có vua khác chỉ Sêsa mà thôi”
(Giăng 19.15).
Đức
Chúa Trời đã làm chứng cho sự thật Chúa Jêsus là Con của Đức Chúa Trời, Vua của
Ysơraên, lúc Ngài chịu phép báptêm, cũng một thể ấy Ngài đã quyết địa vị Vua của
Ngài bằng cách sống lại từ kẻ chết, và đặt Chúa Jêsus ngồi bên hữu Ngài. Khi Đức
Thánh Linh giáng lâm lúc Hội thánh khai sinh vào ngày lễ Ngũ Tuần, Phierơ đã
rao giảng, minh chứng rằng Chúa Jêsus là Vua của Ysơraên, và Đức Chúa Trời đã
làm cho Ngài sống lại từ kẻ chết. Phần kết luận của Phierơ công bố rất mạnh mẽ:
“Vậy, cả
nhà Y-sơ-ra-ên khá biết chắc rằng Đức Chúa Trời đã tôn Jêsus nầy, mà các ngươi đã
đóng đinh trên thập tự giá, làm Chúa và Đấng Christ” (Công vụ các sứ đồ 2.36).
Vua
Jêsus hiện bây giờ đang ngồi bên tay hữu của Đức Chúa Cha, và Ngài sẽ tái lâm,
bắt phục mọi kẻ thù nghịch và thiết lập Vương quốc Ngài. Cho nên chẳng có phải
ngạc nhiên khi thấy nỗi lo sợ giáng trên đám đông và nhiều người đã tuyên xưng Đấng
Christ là Cứu Chúa và là Vua của họ trong ngày ấy.
Khi
cấp lãnh đạo tôn giáo người Do thái ngăn cấm các môn đồ của Chúa chúng ta rao
giảng Tin Lành, Hội thánh đã xem yêu cầu nầy là một sự loạn nghịch chống lại Đấng
Christ là Vua của Ysơraên. Lời lẽ của họ cho thấy rằng họ xem những sự cố nầy đang
làm ứng nghiệm lời nói của tác giả Thi thiên 2. Thi thiên nầy nói Đấng Christ
là Vua của Đức Chúa Trời:
“LẠY CHÚA, LÀ ĐẤNG DỰNG NÊN TRỜI,
ĐẤT, BIỂN, CÙNG MUÔN VẬT TRONG ĐÓ, và đã dùng đức thánh linh, phán bởi miệng tổ
phụ chúng tôi, tức là đầy tớ ngài, là vua đa-vít, rằng: VÌ SAO CÁC DÂN NỔI GIẬN,
LẠI VÌ SAO CÁC NƯỚC LẬP MƯU VÔ ÍCH? CÁC VUA TRÊN MẶT ĐẤT DẤY LÊN, CÁC QUAN HIỆP
LẠI, MÀ NGHỊCH CÙNG CHÚA VÀ ĐẤNG CHỊU XỨC DẦU CỦA NGÀI…” (Công vụ các sứ đồ 4.24b-26).
Phần kết luận
Lời tuyên bố của Chúa Jêsus là Vua của
Ysơraên mang nhiều hàm ý cho chúng ta, cũng như cho những ai phải bề ngoài đáp ứng
với những lời xưng nhận của Chúa chúng ta trong những ngày của Giao ước mới.
Chúng ta hãy xét một số các lãnh vực ứng dụng khi chúng ta kết luận bài học của
chúng ta.
Thứ nhất, nếu Đức Chúa Jêsus Christ
là Vua của Đức Chúa Trời, thì chúng ta phải lắng nghe Ngài một cách cẩn thận hơn,
và làm theo các mạng lệnh của Ngài. Tôi không tin là các môn đồ đều có nghe những
lời lẽ phán ra bởi Đức Chúa Cha lúc Chúa chúng ta chịu phép báptêm Ấn tượng của
tôi: ấy là chỉ có Giăng và Chúa Jêsus nghe mà thôi. Gần như những lời lẽ đó đã được
phán ra có ba môn đồ nghe được từ núi hoá hình, và ở đây rõ ràng những lời lẽ nầy
có dụng ý khích lệ các môn đồ nên lắng nghe Chúa Jêsus cách cẩn thận hơn:
“Nầy là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đường” (Mathiơ 17.5).
Tác động rõ ràng là điều nầy: “Nếu đây là Con của Đức Chúa Trời, các ngươi phải nghe lời
Con ấy triệt để”.
Phierơ nói cũng một câu ấy với hàng độc
giả của ông. Nếu lời lẽ của Đức Chúa Trời xác nhận lời nói của Chúa Jêsus, thì
Phierơ nói họ cũng phải xác nhận sự rao giảng của các sứ đồ về thập tự giá:
“Vả, khi chúng tôi đã làm cho anh
em biết quyền phép và sự đến của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, thì chẳng phải
là theo những chuyện khéo đặt để, bèn là chính mắt chúng tôi đã ngó thấy sự oai
nghiêm Ngài. Vì Ngài đã nhận lãnh sự tôn trọng vinh hiển từ nơi Đức Chúa Trời,
Cha Ngài, khi Đấng tôn nghiêm rất cao phán cùng Ngài rằng: "Nầy là Con yêu
dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đường." Chính chúng tôi cũng từng nghe tiếng ấy
đến từ trời, lúc chúng tôi ở với Ngài trên hòn núi thánh. Nhân đó, chúng tôi
càng tin lời các đấng tiên tri chắc chắn hơn, anh em nên chú ý lời đó, như cái đèn
soi sáng trong nơi tối tăm, cho đến chừng nào ban ngày lộ ra, và sao mai mọc
trong lòng anh em” (II Phierơ 1.16-19).
Với điều nầy, trước giả sách Hêbơrơ
cũng ở trong sự nhất trí. Ông đã viết: “Vả, Đức Chúa Trời há có bao giờ phán cùng thiên sứ rằng: NGƯƠI
LÀ CON TA, NGÀY NAY TA ĐÃ SANH NGƯƠI? Lại há có khi nào phán: TA SẼ LÀM CHA NGƯƠI,
NGƯƠI SẼ LÀM CON TA?” (Hêbơrơ 1.5).
“Vậy nên, chúng ta phải càng giữ
vững lấy điều mình đã nghe e kẻo bị trôi lạc chăng. Vì nếu lời thiên sứ rao
truyền đã vững chắc và sự trái phép nghịch mạng đã được báo ứng xứng đáng rồi,
mà nếu ta còn trễ nải sự cứu rỗi lớn dường ấy, thì làm sao tránh cho khỏi được?” (Hêbơrơ 2.1-3a).
Thứ hai, Đức
Chúa Jêsus Christ là Vua, Ngài sẽ tái lâm để ban thưởng cho người công bình và
thu phục kẻ thù nghịch Ngài. Sứ điệp mà Phierơ cung ứng cho thính giả của ông cũng
có thể ứng dụng cho chúng ta. Đức Chúa Jêsus Christ là Vua của Đức Chúa Trời,
nhưng Ngài không bao lâu nữa sẽ tái lâm. Sự tái lâm của Ngài đã được mô tả rất
chi tiết trong sách Khải huyền. Chẳng có một thắc mắc nào Ngài sẽ tái lâm hay
không. Thắc mắc duy nhất là quý vị có chấp nhận Ngài là Vua của quý vị hay
không, hay Ngài sẽ bất ngờ gặp quý vị như là kẻ thù. Tôi khuyên quý vị nên tiếp
nhận Ngài ngay hôm nay. Đây là sứ điệp của tác giả Thi thiên, khi ông nói về
Nhà Vua và về phản ứng của chúng ta đối với Ngài:
“Hãy hôn Con, e Người nổi giận,
Và các ngươi hư mất trong đường chăng; Vì cơn thạnh nộ Người hòng nổi lên. Phàm
kẻ nào nương náu mình nơi Người có phước thay!” (Thi thiên 2.12).
Sau cùng,
khi Đấng Christ đến làm Vua, hết thảy những ai tin cậy Đấng Christ đều sẽ trị
vì với Ngài. Không những Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời, mà mọi thánh đồ ai cũng
biết họ là “những
con trai của Đức Chúa Trời” nữa, họ sẽ cùng Ngài trị vì.
“Vì hết thảy kẻ nào được Thánh
Linh của Đức Chúa Trời dắt dẫn, đều là con của Đức Chúa Trời. Thật thế, muôn vật
ước ao nóng nảy mà trông đợi con cái Đức Chúa Trời được tỏ ra. Vì muôn vật đã bị
bắt phục sự hư không, chẳng phải tự ý mình, bèn là bởi cớ Đấng bắt phục. Muôn vật
mong rằng mình cũng sẽ được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát, đặng dự phần trong
sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời. không những muôn vật thôi, lại
chúng ta, là kẻ có trái đầu mùa của Đức Thánh Linh, cũng than thở trong lòng, đang
khi trông đợi sự làm con nuôi, tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy” (Rôma 8.14, 19-21, 23).
“Kẻ nào thắng sẽ được những sự ấy
làm cơ nghiệp, ta sẽ làm Đức Chúa Trời người và người sẽ làm con ta” (Khải huyền 21.7).
Nguyện quý
vị có mặt giữa vòng họ là những con trai của Đức Chúa Trời, và cùng họ trị vì với
Ngài cho đến đời đời.
Như Chúa
chúng ta đã chịu phép báptêm bởi Đức Thánh Linh, khi ấn định Ngài là Con của Đức
Chúa Trời, và mặc cho Ngài quyền phép để thi hành chức vụ, thì cũng một thể ấy
mỗi thánh đồ chân thật đều chịu phép bápêm cũng bởi Đức Thánh Linh, và được mặc
lấy quyền phép đặng hầu việc Ngài.
“Trước mặt Đức Chúa Trời là Đấng
ban sự sống cho mọi vật, và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng làm chứng tốt
nơi Bôn-xơ Phi-lát, ta khuyên con phải giữ điều răn, ở cho không vết tích và
không chỗ trách được, cho đến k" sự hiện ra của Đức Chúa Jêsus Christ
chúng ta, là sự mà Đấng Chủ tể hạnh phước và có một đến k" sẽ tỏ ra, là
Vua của mọi vua, Chúa của mọi chúa, một mình Ngài có sự không hề chết, ở nơi sự
sáng không thể đến gần được, chẳng người nào từng thấy Ngài và cũng không thấy được,
danh vọng, quyền năng thuộc về Ngài đời đời! A-men” (I Timôthê 6.13-16).
