Chủ Nhật, 24 tháng 10, 2010

BÀI 6: (Luca 2.39-52): "NGÀY CHÚA JÊSUS VẮNG MẶT KHÔNG PHÉP"



Phần giới thiệu.
Sự biến mất, sự khám phá, và sự công bố của Chúa Jêsus (2.39-52).
Câu chuyện nầy có ý muốn nói ra điều gì?
Mục đích của sứ điệp
Phần ứng dụng
BÀI 6
NGÀY CHÚA JÊSUS VẮNG MẶT KHÔNG PHÉP
(Luca 2.39-52)
Phần giới thiệu
Mùa hè lại đến và chúng tôi hướng về miền Tây Bắc, chúng tôi đến thăm viếng gia đình và bạn hữu ở đây. Đây là một chuyến đi dài, đặc biệt với năm cô gái, và cần phải có nhiều sự chuẩn bị lắm. Như thường lệ, chúng tôi lo sửa soạn đến cả đêm, rồi đến sáng sớm hôm sau, sau cùng chúng tôi đã chất mọi thứ vào xe hơi khoảng 4 giờ sáng. Mấy đứa nhỏ đều ngủ ở băng sau xe khi chúng tôi khởi sự lên đường. Vợ tôi đề nghị rằng chúng tôi nên “trực chỉ” khi ra đi. Chắc chắn là chúng tôi sẽ đi con đường ngắn nhất. Trên chuyến về nhà, một trong mấy đứa trẻ đã bò ra khỏi xe không bị phát hiện và trở lại giường mình mà nằm ngủ. Sự thể nầy làm cho chúng tôi phải mất mấy tiếng đồng hồ trên đường trước khi phát hiện ra sự cố.
Tôi tưởng tượng đa số quý vị có thể gặp phải cùng một vấn đề tương tự, về sự một đứa con hay một thành viên trong gia đình bị để lại ở phía sau, giống như ở câu chuyện nầy vậy. Vì lẽ ấy chúng ta hay có khuynh hướng nhìn vào câu chuyện nói tới sự vắng mặt của Chúa chúng ta tách rời khỏi gia đình trong đoàn người lữ hành ấy giống như một kiểu “tai vạ”, là hình thức mà nhiều gia đình nói về những năm tháng hầu đến vậy.
Câu chuyện nói tới sự vắng mặt Chúa Jêsus là một câu chuyện rất khác biệt trong nhiều phương diện. Thứ nhất, chúng ta hãy nhớ rằng đây là một trường hợp rất cảm động, ghi lại trong Kinh Thánh về những năm thiếu thời của Chúa chúng ta. Mathiơ ghi lại trường hợp mấy thầy bác sĩ đến thăm viếng cùng nổ lực của vua Hêrốt muốn giết con trẻ Jêsus, và cuộc trốn tránh sang Aicập, nhưng ở Luca 2 câu chuyện thuật lại những năm tháng thiếu thời của Chúa chúng ta có khác hơn trường hợp lên đền thờ lúc Chúa chúng ta được 12 tuổi, trong khi chẳng có sách nào khác ghi lại về những năm tháng thiếu thời của Chúa Jêsus. Có thể là Luca cảm thấy câu chuyện nầy thực rất quan trọng, là trường hợp duy nhất thời niên thiếu đã được ghi lại trong tin lành của ông.
Thứ hai, trong câu chuyện nầy có ghi lại những lời nói đầu tiên của Chúa Jêsus. Tất nhiên là chẳng có một lời nào ghi lại từ lúc ra đời và ấu thơ của Đấng Christ hết. Phần nhiều những câu nói của Chúa chúng ta đã được ghi lại từ chức vụ về sau của Ngài. Nhưng những câu nói của Chúa chúng ta trong phân đoạn Kinh Thánh nầy là những câu nói đầu tiên của Ngài đã được ghi lại, và chúng quả thực là những lời nói rất quan trọng.
Thứ ba, đây là lần sau cùng Giôsép được nhắc tới trong đời sống của Chúa chúng ta. Thường thì người ta cho rằng Giôsép đã qua đời sau trường hợp nầy, trước khi Chúa chúng ta bắt đầu chức vụ công khai của Ngài. Cũng có thể lần nhắc tới Giôsép sau cùng nầy chính là đầu mối cho tầm quan trọng của phân đoạn Kinh Thánh, và của trường hợp đã được ghi lại.
Sau cùng, theo lý trí của cha mẹ đời nầy của Ngài, Mary và Giôsép, mọi hành động của Chúa chúng ta tỏ ra là sai lầm. Mấy câu nói của Mary và Giôsép rõ ràng muốn ám chỉ một sự thừa nhận việc làm sai trái của Ngài, và vì thế được xét rõ ràng là quở trách, song lại rất nhẹ nhàng. Nếu con trẻ nầy là một ai khác hơn Chúa Jêsus, chúng ta hết thảy đều sẽ đồng ý rằng Ngài sai lầm ngay. Vậy thì, điều chi đã làm cho mọi hành động của Chúa Jêsus ra đúng, một khi những đứa trẻ 12 tuổi khác không có?
“Mối căng thẳng của phân đoạn Kinh Thánh” (mối căng thẳng nầy được rút ra từ các chi tiết của phân đoạn Kinh Thánh, và nó chứng minh đấy là chìa khoá cho sự lý giải) sẽ được thấy ở đây. Trong khi chúng ta nhìn nhận rằng Chúa Jêsus không có tội lỗi, mọi hành động của Ngài ở đây không phải là sai lầm sao, trong khi cha mẹ Ngài đã xem là sai lầm? Tại sao mọi hành động của Chúa Jêsus đối với Ngài không phải là sai lầm, khi chúng là sai đối với bất kỳ một cậu bé Do thái nào khác (hay dân Ngoại về vấn đề nầy)?
Tôi phải nói cho quý vị biết đây là một trong những bài học “gút mắc” nhất đấy. Khi tôi còn nhỏ, chúng tôi có một con chó thuộc giống Ê-cốt. Không giống như thứ chó có đầu to và khoẻ đâu, là loài chó chuyên chạy tới, nhìn thẳng mắt quý vị, rồi cắn quý vị ngay, chó Ê-cốt của chúng tôi thường nép mình phía sau quý vị, rất bình tĩnh, rồi thình lình quý vị sẽ cảm nhận hai hàm răng của nó tiếp xúc với chỗ kín đáo nhất của quý vị. Câu chuyện nầy cũng giống như thế đấy. Lúc đầu thì câu chuyện dường như có một va chạm ít thôi. Tuy nhiên, câu chuyện đã đưa ra một số vấn đề quan trọng về Chúa Jêsus, nhưng lại có ít phần ứng dụng cho chúng ta. Hãy coi chừng đấy! Phần bài học nầy không bao lâu sẽ có tác động lớn trên quý vị, và nó dạy một bài rất quan trọng, với những ngụ ý to lớn.
Sự biến mất, sự khám phá, và sự công bố của Chúa Jêsus (2.39-52)
Câu chuyện thực ra rất đơn giản. Cha mẹ của Chúa chúng ta đã đi lên thành Giêrusalem để giữ Lễ Vượt Qua, đúng như họ đã từng giữ mỗi năm vậy (2.41-42). Câu chuyện không nói rõ ràng, nhưng tôi lại có ấn tượng rằng Chúa Jêsus đã được đem theo đi cùng suốt những năm tháng thiếu thời của Ngài. Lần nầy, Ngài đã được 12 tuổi. Nương theo phần nghiên cứu cho thấy, ở độ tuổi 12 hay 13 đứa trẻ Do thái đã được lập làm “đứa con của luật pháp” rồi (theo các kinh văn Do thái). Những khách hành hương phải thực hiện hành trình đến thành Giêrusalem rồi trở về thường đi chung với nhau thành những đoàn lữ hành. Vì thế, gia đình, bạn hữu, cùng những người quen biết khác đến từ thành Naxarét và khu vực xung quanh dường như hình thành một đoàn lữ hành như thế. Kỳ lễ đã kết thúc, đoàn lữ hành bắt đầu cuộc di hành trở về nhà, và giữa vòng họ là Mary và Giôsép (có lẽ với con cái của họ nữa), nhưng không có Chúa Jêsus ở đấy.
Chúa Jêsus chưa bị khám phá là vắng mặt ngay lập tức đâu. Có lẽ vì một số lý do nào đó. Thứ nhất, Chúa Jêsus là một đứa trẻ đáng tin cậy tuyệt đối. Là Con của Đức Chúa Trời, Ngài vốn không có tội lỗi, và vì thế cha mẹ Ngài không có sự bận tâm như các bậc phụ huynh khác có. Nhiều người đờn ông và đờn bà cũng đã di hành từng nhóm riêng. Theo như chúng ta biết thì phụ nữ và trẻ con thường đi ở đàng trước, với những tốp đờn ông đi bọc hậu phía sau. Vì thế mỗi người làm cha làm mẹ đều giả định rằng Chúa Jêsus có mặt với cha hay với mẹ của mình. Hiển nhiên là sự thiếu vắng Chúa Jêsus đã được lưu ý rồi, và sau khi tìm kiếm giữa vòng đoàn người lữ hành và hoàn toàn thấy không có Ngài, Mary và Giôsép mới trở lại thành Giêrusalem, làm mất đi một ngày đường nữa.
Trong ba ngày họ đã đi tìm con trẻ Jêsus. Có những người nghĩ rằng ba ngày tìm kiếm phải kể cả thời gian có cần để tìm Ngài trong đoàn lữ hành, cũng như thời gian quay trở lại thành Giêrusalem. Tôi có khuynh hướng đọc sách Luca theo một cuộc tìm kiếm ba ngày đã diễn ra rồi vậy, bắt đầu từ thời điểm họ vào lại thành Giêrusalem. Đây là một cuộc tìm kiếm lâu dài, sôi nổi lắm, nó sẽ dẫn tới một sự quan tâm và sửng sốt ngày càng tăng, cũng như sự thất bại càng thêm lên, dường như rất rõ ràng trong phản ứng đầu tiên của cha mẹ đối với Chúa Jêsus, khi tìm gặp Ngài rồi.
Sau cùng, như là một phương án cuối cùng, cha mẹ đã tìm gặp Chúa Jêsus trong đền thờ. Và Ngài đang có mặt ở đó, ngồi giữa mấy thầy thông giáo, bận rộn lắm trong sự đối đáp. Vai trò của Ngài chủ yếu là một người đến nghe và học, Ngài đã đưa ra nhiều câu hỏi rất sắc sảo và thích đáng. Rõ ràng là Ngài cũng đưa ra một số đáp ứng, vì những người có mặt quanh đó đều lấy làm lạ về sự đối đáp của Ngài.
Quý vị hãy tưởng tượng xem về một người trong cha mẹ của Chúa Jêsus ngay thời điểm nầy. Phải tỏ ra thành thật nhất đấy. Hãy tưởng tượng về mối lo ngày càng tăng theo thời gian trôi qua, và khi con trẻ chưa tìm được. Hãy xem lại những nỗi lo sợ đang tăng cao khi quý vị nhớ lại tình trạng đáng tin cậy tuyệt đối với nơi Chúa Jêsus và nơi sự khôn ngoan của Ngài. Và rồi quý vị tìm gặp Ngài, dường như quá thoải mái trước mọi căng thẳng mà Ngài đã gây ra, đang tranh luận về thần học (có lẽ như Ngài đã thường làm ở Naxarét vậy) trong đền thờ. Bây giờ, giữa tình trạng đó, quý vị sẽ nổi giận với Ngài, giống như tôi đã từng nổi giận vậy.
Mọi lo toan, căng thẳng do sự vắng mặt Chúa Jêsus gây ra giờ đây trở lại, tin chắc là với sự thất vọng và giận dữ lắm. Mẹ Ngài đang gắt gỏng với Ngài, có lẽ nhẹ nhàng thôi (trước mặt mấy thầy thông giáo, họ đang quan sát), nhưng trong lời nói của bà có ý quở trách. Ngay lúc nầy, Mary đã hoàn toàn quên rằng Chúa Jêsus là một đứa trẻ hoàn toàn khác biệt với bất kỳ một đứa trẻ nào khác. Mọi sự kỳ lạ mà bà đã nói ra và đã nhìn thấy, những điều bà đã “ghi ở trong lòng” có lẽ là những điều đã bị sự thất vọng phủ lấp nhất thời mà thôi. “Hỡi con, sao con làm cho hai ta thể nầy?” Dường như là cốt lõi trong lời đầu tiên của bà: “Nầy cha và mẹ đã khó nhọc lắm mà tìm con”.
Người ta có thể trông mong đứa trẻ sẽ nhìn xuống, bị cắn rứt bởi lời quở trách, bởi sự dại dột và thiếu suy nghĩ của mình. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp, vì đáp ứng của Chúa Jêsus đã chuyển đổi tiêu điểm từ sai lầm của Ngài trở thành sai lầm của họ. Trong phần đáp ứng lại lời quở trách của mẹ Ngài, có một lời quở trách nhẹ nhàng trong câu hỏi của chính Ngài: “Cha mẹ kiếm tôi làm chi?” Dường như Ngài muốn hỏi: “Bộ cha mẹ không biết chỗ phải tìm gặp con sao?” Và có lẽ rất sâu sắc trong câu đáp với lời nói của Mary ám chỉ Giôsép là cha của Ngài, Chúa Jêsus đã nói rằng Ngài đã ở trong nhà Cha của Ngài, đúng là nơi mà Đức Chúa Con sẽ ở.
Không có một sự phân giải nào, lý do cho thấy là cả Mary và Giôsép thực sự đều không nắm bắt được những gì đang diễn ra, cũng không nắm bắt được những gì Con “của họ”, là Chúa chúng ta đã nói ra. Sự việc kết thúc với Mary (cùng với Giôsép) một lần nữa đã bối rối với mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời bà có liên quan tới con trẻ nầy. Mọi sự bà có thể làm là đặt những việc nầy cùng với những việc khác mà bà đã kinh nghiệm, chờ đợi cho tới ngày nào ý nghĩa của mọi sự nầy sẽ tỏ ra rõ ràng. Nếu ký ức về các biến cố kín nhiệm trong sự giáng sinh của Chúa Jêsus bắt đầu làm cho lý trí của Mary và Giôsép phải bị che mờ đi, sự việc nầy một lần nữa đưa chúng hồi trở lại trong lý trí của họ.
Vấn đề qua mau như sự việc đã xảy ra. Chúa Jêsus liền đi với họ, trở về lại lại thành Naxarét, cùng sống chung với họ, và trong sự đầu phục thẩm quyền của họ. Tuy nhiên, mọi việc không hoàn toàn như thế, tôi nghĩ vậy. Chúa Jêsus cứ tiếp tục lớn lên, về thuộc thể, về thuộc linh, và về xã hội. Nhiều năm trời trôi qua cho tới khi chức vụ công khai của Chúa Jêsus bắt đầu, nhưng trong suốt khoảng thời gian nầy Chúa Jêsus vẫn cứ tiếp tục tấn tới, đang được sửa soạn cho ngày xuất hiện công khai của Ngài là Đấng Mêsi của Ysơraên. Ý thức về mục đích và sự kêu gọi của Ngài hướng tới sự định trước nầy có thể thấy được, thậm chí trong câu chuyện thuở ấu thơ nầy.
Câu chuyện nầy có ý muốn nói ra điều gì?
Xem xét phần Kinh Thánh nầy theo cách ngẫu nhiên, không vật vã nắm bắt được ý nghĩa của nó thì rất sơ xuất lắm đấy. Hãy nhớ, đây không phải là một trong những truyện tích mà chúng ta đã nghe kể về một đứa con bị thất lạc đâu, chính trong câu chuyện duy nhất của Luca nói tới một sự cố trong những năm tháng thiếu thời của Đấng Mêsi của Ysơraên, là Cứu Chúa của chúng ta. Câu chuyện có thể được giải thích theo vài cách thức. Chúng ta hãy xem lại những cách chọn lựa của mình rồi quyết định cách nào chỉ ra ý nghĩa của phân đoạn Kinh Thánh nầy.
(1) Lựa chọn đầu tiên của chúng ta là chỉ xem câu chuyện nầy đơn giản là một giai thoại thôi, một trường hợp trong đời sống của Đấng Christ, với câu chuyện đó chúng ta có thể đồng cảm với mọi sự. Mỗi sự việc đã được trình bày ra trong các sách tin lành đều có phần quan trọng hết thảy.
(2) Lựa chọn thứ hai không được chấp nhận: ấy là hiểu Chúa Jêsus phạm sai lầm khi ở lại thành Giêrusalem, ít nhất không có nói cho cha mẹ Ngài biết về những việc Ngài sẽ làm. Khi Chúa Jêsus là Con của Đức Chúa Trời, trong Ngài chẳng có tội lỗi chi hết, thì Ngài không thể phạm sai lầm ở đây, dù là con trẻ.
(3) Lựa chọn thứ ba: ấy là xem Chúa Jêsus là một kiểu Đấng Mêsi “hay đãng trí”, Ngài quá bận tâm với đền thờ và Kinh Thánh đến nỗi Ngài đã quên bẳng đi đoàn lữ hành, rồi vì thế mà bị bỏ lại ở đàng sau. Dường như đây là quan điểm ít nhất của một nhà giải kinh. Tôi biết vài câu chuyện nói tới “sự đãng trí bậc thầy” từ những năm tháng trong Thần học viện. Một câu chuyện loại ấy nói về một giáo sư, ông đứng sau cánh cửa, suy nghĩ, đôi khi lại gõ gõ, mà không biết mình đang đứng ở ngoài cửa nhà mình hay nhà người lân cận, nơi mà ông muốn vào. Câu chuyện khác kể lại về vị giáo sư lái xe mình đến Houston, bang Texas, nơi ông phải giảng dạy, rồi dùng phi cơ bay về nhà, quên bẳng đi là mình đã lái xe tới đó.
Chúa Jêsus như đã nói quá bận tâm với “công việc của Cha Ngài”, và lời quở trách của cha mẹ Ngài đã đến như một cú sốc vậy. Tuy nhiên, đây là một điều rất khó tin. Tôi khó mà tin được “câu chuyện Jêsus đãng trí” lại thích ứng ngay sau khi Luca đưa ra lời bình rằng Chúa Jêsus khôn ngoan càng thêm. Lời nói của Chúa Jêsus cho thấy rằng Ngài đã có ý định ở lại thành Giêrusalem (“tôi phải…”, câu 49). Chúng ta biết rõ Chúa Jêsus là đứa con lớn nhất, giữa vòng mấy đứa trẻ khác (Mathiơ 13.55-56) và thế là Ngài phải có phần việc trông coi chúng, và có lẽ đưa chúng đi cùng với đoàn lữ hành. Khi ngày đầu tiên trong đền thờ sắp kết thúc, rõ ràng Ngài bị tách riêng ra với cha mẹ, thế mà Ngài chẳng lấy làm bận tâm, chẳng có một nổ lực nào để tìm cách kết hiệp với họ lại, và rõ ràng là họ chẳng hề tìm kiếm Ngài. Đãng trí có thể không là tội, nhưng không phải là không tỏ ra lanh lợi. Chúa Jêsus không phải bị đãng trí ở đây.
(4) Lựa chọn thứ tư: ấy là cha mẹ Chúa Jêsus quá lơ đểnh, và họ phải chịu trách nhiệm khi rời khỏi Giêrusalem mà không có Chúa Jêsus. Làm sao họ rời khỏi thành Giêrusalem mà không có Chúa Jêsus chớ? Làm sao họ có thể tin Ngài phải gánh lấy trọng trách như vậy được chớ? Điều nầy cũng không đúng với câu chuyện. Nếu Chúa Jêsus cùng lên đường với cha mẹ Ngài trước đó (như tôi đã có nói), thì Ngài phải quen thuộc với đường xá, Ngài phải chứng minh mình có khả năng trên các cuộc hành trình trước đó. Một sự giám sát nơi phần của cha mẹ vẫn không lý giải được sự chủ ý của Chúa chúng ta trong việc ở lại đàng sau. Thậm chí nếu Ngài không thành công trong việc ở lại đàng sau, Ngài quyết làm như vậy, và không có xin phép hay thông báo cho họ biết các dự tính của Ngài.
(5) Lựa chọn sau cùng của chúng ta: ấy là Chúa Jêsus đã đúng trong mọi việc Ngài đã làm, và cha mẹ Ngài đã sai khi nổi giận và quở trách Ngài. Chúa Jêsus có ý định ở lại thành Giêrusalem, mà không xin phép cha mẹ, và không cần thông báo cho họ biết về mọi hành động của Ngài. Thắc mắc là, tại sao?
Trong ánh sáng phần còn lại của đời sống Đấng Christ và của sự mặc khải trong Tân ước, tôi tin rằng chúng ta có thể nhận ra vài lý do cho các hành động của Chúa Jêsus, những lý do mà Mary và Giôsép đã không có khả năng nắm bắt được ngay khi ấy.
Thứ nhất, Chúa Jêsus đã ở lại đàng sau trong thành Giêrusalem để học biết về Đức Chúa Trời. Tôi không thể giải thích làm sao mà Chúa chúng ta, Ngài vừa là Đức Chúa Trời và là con người trọn vẹn lại cần phải học hỏi, cần phải phát triển khả năng nắm bắt Lời Đức Chúa Trời, nhưng tôi tin đấy là sự thật. Những câu nói giới thiệu và tóm tắt phân đoạn Kinh Thánh nầy khiến cho sự tấn tới của Chúa chúng ta thành một trong những sự nổi bật nhất trong câu:
“Con trẻ lớn lên, và mạnh mẽ, được đầy dẫy sự khôn ngoan, và ơn Đức Chúa Trời ngự trên Ngài” (Luca 2.40).
“Đức Chúa Jêsus khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta” (Luca 2.52).
Thế thì càng dễ tin rằng Chúa Jêsus lớn lên về phần xác thể hơn là tin Ngài tấn tới về phần trí khôn và về thuộc linh, nhưng phân đoạn Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Ngài đã tấn tới theo mọi chiều kích. Sự trao đổi giữa Chúa chúng ta cùng mấy thầy thông giáo tại đền thờ tỏ ra cả sự sốt sắng muốn học hỏi của Chúa (vì Ngài đang hỏi và nghe họ – tư thế của người đang tiếp thu), và chiều sâu sự khôn ngoan mà Ngài đã có được rồi.
Thứ hai, sự việc cho thấy rằng Chúa Jêsus đã ở lại trong thành Giêrusalem để học biết từ mấy thầy thông thái những sự việc mà cha mẹ Ngài không có dạy cho Ngài biết. Có một ý nghĩa rộng rãi, trong đó mỗi người đều cần tới chức vụ của người khác trong “thân thể của Đấng Christ”, và bậc phụ huynh không thể và không nên giữ miếng với tánh ganh tị về sự dạy dỗ con cái mình bằng cách giữ nó [nam hay nữ] tránh xa chức vụ của người khác. Tuy nhiên, ở đây, tôi tin có một sự việc đang diễn ra. Chúa Jêsus đã có mặt trong thành Giêrusalem trong suốt kỳ lễ Vượt Qua (Luca 2.41). Tôi có khuynh hướng nghĩ rằng Ngài đặc biệt muốn biết về ý nghĩa của lễ Vượt Qua, một khi kỳ lễ ấy được ứng dụng vào Ngài. Các thầy thông giáo ở đền thờ có thể giải đáp thắc mắc cho Chúa chúng ta nhiều về mặt lý thuyết và theo cách khách quan. Cha mẹ của Chúa chúng ta chắc chắn không để cho lý trí của họ phải suy nghĩ về sự hy sinh của chính đứa con mình. Vì lẽ đó Chúa Jêsus đã ở lại trong thành Giêrusalem để học biết từ người khác mọi điều Ngài không thể học được từ cha mẹ của mình.
Thứ ba, tôi tin rằng Chúa Jêsus đã ở lại trong thành Giêrusalem vì Ngài sẽ không được phép ở lại đó. Hãy suy nghĩ về vấn đề nầy trong một phút. Quý vị nghĩ Mary và Giôsép sẽ nói sao khi đáp ứng lại câu hỏi nầy: “Con có thể ở lại thànhh Giêrusalem trong vài ngày để tranh luận về Cựu Ước và thần học với các giáo sư hàng đầu của Ysơraên không?” Mãi cho tới bây giờ, chẳng ai sẽ gặp gỡ và nghe trẻ con nói bao giờ. Tôi không thể hình dung cha mẹ theo đời nầy của Chúa chúng ta lại đồng ý cho Ngài làm theo mọi điều Ngài cần phải làm. Vì thế, Ngài đã không xin phép họ.
Sau cùng, và hầu như là quan trọng nhất, Chúa Jêsus đã không xin phép để ở lại thành Giêrusalem bởi vì Ngài chính là Đức Chúa Trời. Ở một cấp độ, cấp độ mà Mary và Giôsép đã nhìn thấy, Chúa Jêsus chỉ là một cậu bé con, một cậu bé không có khả năng đưa ra những quyết định quan trọng, một cậu bé chưa đủ tuổi để tự mình ở lại trong thành Giêrusalem, một cậu bé còn quá nhỏ không thể tranh luận Kinh Thánh với các bậc giáo sư tài giỏi nhất trong Ysơraên. Thế nhưng khi Ngài là một con người, một cậu bé chỉ có 12 tuổi, Ngài cũng là Đức Chúa Trời trong loài xác thịt, y như thiên sứ đã phán với Mary và Giôsép nhiều năm trước đó (Mathiơ 1.20-25; Luca 1.32, 35). Ở một cấp độ thiêng liêng, Đức Chúa Trời không cần sự được phép của con người mới hành động theo phương thức nào Ngài thấy thích hợp, cũng không nhất thiết đòi hỏi Đức Chúa Trời phải giải thích mọi hành động của Ngài cho con người biết. Thực vậy, Đức Chúa Trời hoàn toàn tự do làm theo những việc khiến cho con người phải sửng sốt và đau khổ. Câu chuyện cho thấy rằng Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời trọn vẹn (cũng như là con người trọn vẹn), câu chuyện ấy giải thích thể nào Ngài có thể hành động như Ngài đã hành động và không có gì sai lầm khi hành động như thế. Nếu đấy là một đứa trẻ khác, chúng ta sẽ đứng chung phía với các bậc phụ huynh, song khi đứa trẻ đó là Con của Đức Chúa Trời, chúng ta phải mau mau công nhận Ngài là đúng. Chúa Jêsus, không như những đứa trẻ 12 tuổi khác trong lịch sử, chính là Đức Chúa Trời.
Mục đích của sứ điệp
Thật là phấn khởi khi giờ đây chúng ta hiểu rõ lý do tại sao Chúa Jêsus đã làm và nói mọi điều Ngài đã làm trong bối cảnh xảy ra tại đền thờ. Thắc mắc vẫn là: “Tại sao Luca chỉ ghi lại sự kiện nầy trong thời thơ ấu của Chúa chúng ta?” Điều chi là quan trọng trong sự cố nầy để nó xứng đáng trở thành một phần trong bản tường trình thiêng liêng nói về cuộc đời của Đấng Christ? Phân đoạn đưa ra vài chức năng quan trọng, như tôi vừa hiểu được nó.
(1) Phân đoạn khẳng định cả nhân tính và thần tính của Chúa chúng ta. Trong Đấng Christ nhân tính được thêm vào thần tính. Xuyên suốt lịch sử của Hội thánh (bắt đầu rất sớm trong lịch sử Hội thánh), con người thường nhấn mạnh một mặt trong hai bổn tánh của Chúa chúng ta (thần tánh và nhân tánh của Ngài) theo sự tiêu hao của mặt kia. Một hình thức sai lầm (thí dụ, lý thuyết Doce) có khuynh hướng nhắm vào thần tính của Đấng Christ, song lại thu nhỏ phần nhân tính của Ngài. Lý thuyết cực đoan khác (thí dụ, lý thuyết Adoption) nhấn mạnh nhân tính của Chúa Jêsus, nhưng lại thu nhỏ thần tính trọn vẹn của Ngài.
Trong Luca chương 2, Luca nhấn mạnh cả thần tính và nhân tính của Chúa chúng ta. Sự kiện Chúa Jêsus là con người trọn vẹn được làm chứng hiển nhiên bởi sự thật Ngài đã được sanh ra và Ngài là một đứa trẻ, Ngài lớn lên và phát triển như bao đứa trẻ bình thường khác, về mặt thể chất, về trí khôn và về thuộc linh. Chúa Jêsus đã ở lại trong đền thờ để học hỏi, chớ không phải để dạy dỗ (mặc dù những câu trả lời của Ngài cho những thắc mắc làm sững sờ những kẻ chứng kiến cuộc trao đổi nầy). Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời cũng rất hiển nhiên trong phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta. Sự khôn ngoan của Chúa Jêsus được đem đối chiếu trong phân đoạn Kinh Thánh nầy với sự thiếu hiểu biết của cha mẹ Ngài, khi họ không nắm bắt được Ngài là ai và tại sao Ngài lại hành động như Ngài đã hành động, thậm chí với mặc khải về Ngài mà họ đã được ban cho. Chúa Jêsus đã nói Đức Chúa Trời là Cha của Ngài, và đã có mặt trong đền thờ vì đấy là chỗ mà phần “việc của Cha Ngài” được tỏ ra. Nỗi kinh ngạc của những kẻ chứng kiến sự khôn ngoan của Ngài, cũng như sự kinh ngạc của cha mẹ Ngài, là bằng chứng sâu xa cho sự lạ lùng của Ngài. Ngài có thể làm và nói ra những điều mà không một đứa trẻ ở độ tuổi 12 có thể làm và nói, bấy nhiêu cũng đủ chứng minh cho thần tính của Ngài. Vô luận có nhiều cuộc tranh luận và bàn luận trong lịch sử Hội thánh, ai nấy đều nhất trí phần giới thiệu Đấng Christ của Luca đã được dự trù để mô tả Ngài là Người – Trời, thậm chí khi còn là một đứa trẻ 12 tuổi.
(2) Phân đoạn Kinh Thánh nhắc cho chúng ta nhớ tới nguyên tắc của sự tấn tới. Về nhân tính trọn vẹn của Ngài, Chúa chúng ta đã lớn lên, về mặt thể chất, về mặt lý trí, về mặt xã hội, và về mặt thuộc linh. Chúa Jêsus không đến với trần gian và ngay lập tức bắt đầu phục vụ đâu. Chúng ta biết rõ từ các sách tin lành Chúa Jêsus đã gần hay hơn 30 tuổi trước khi chức vụ công khai của Ngài bắt đầu. Sự cố tại đền thờ đã xảy ra sau 12 năm lớn lên nơi phần của Chúa. Chức vụ công khai của Ngài đòi hỏi thêm 18 năm tuổi tấn tới nữa.
Nếu cần thiết cho Đức Chúa Trời đang hoá thân thành xác thịt phải lớn lên và trưởng thành, trong sự chuẩn bị cho chức vụ của Ngài, tại sao chúng ta quá thiên về tình trạng thuộc linh, sự trưởng thành ngay lập tức!?! Có những người muốn chúng ta phải nghĩ tới một số sự cố quan trọng nào đó, một kinh nghiệm thuộc linh kỳ lạ nào đó, là chìa khoá cho sự trưởng thành và sự phục vụ cấp bách. Nếu điều đó không thật cho Chúa chúng ta, thì điều đó cũng không thật cho chúng ta. Chúng ta có thể có được những kinh nghiệm lạ thường và rất vinh hiển, nhưng những kinh nghiệm nầy không tạo ra được sự tấn tới hay trưởng thành cấp bách. Chúng ta đừng trông mong hoặc đòi hỏi nhiều hơn chính mình Chúa và đã kinh nghiệm. Đức Chúa Trời cũng chẳng có gì phải vội vàng cả.
(3) Phân đoạn Kinh Thánh nhắc cho chúng ta nhớ tới mối quan hệ giữa thần tính và quyền bính. Chúa Jêsus có thể làm mọi điều Ngài đã làm vì Ngài là Đức Chúa Trời, và là Đức Chúa Trời Ngài có uy quyền. Quyền bính của Ngài đã cho phép Ngài làm mọi điều mà cha mẹ Ngài không tán thành. Quyền bính của Ngài cho phép Ngài quở trách họ vì thiếu đức tin và sự hiểu biết (ít nhất họ đã phải hiểu từ mọi điều họ đã được cho biết Ngài sẽ ở trong đền thờ). Quyền bính của Ngài cũng cho phép Ngài làm ra những điều quấy rầy họ và khiến cho họ phải lo âu nhiều.
(4) Phân đoạn Kinh Thánh cho chúng ta biết mối quan hệ giữa quyền bính và uy quyền. Nếu Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời thì Ngài cũng có quyền bính. Nếu Ngài có quyền bính, thì uy quyền của Ngài là tối hậu, và thẩm quyền làm cha mẹ của Mary và Giôsép thuộc về loại quyền hạn kém cõi hơn. Uy quyền của Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời trỗi hơn thẩm quyền làm cha mẹ của Mary và Giôsép. Đấy là lý do tại sao Chúa Jêsus cho mình có quyền cao hơn và thắng hơn thẩm quyền làm cha mẹ. (Tôi muốn nói thêm, vì không một đứa trẻ nào dám làm như thế, chỉ có con trẻ Jêsus mới dám làm như vậy thôi, vì Ngài là Đức Chúa Trời).
Thật dễ xưng công bình mọi hành động của Chúa Jêsus trong phân đoạn Kinh Thánh nầy, và lấy làm lạ tại sao Mary và Giôsép lại không thể nắm bắt được chuyện gì đã xảy ra. Nhưng hãy để tôi đề nghị: quý vị và tôi nên đáp ứng lại với quyền bính của Đức Chúa Trời theo cùng một cách chính xác. Khi Đức Chúa Trời đưa nghịch cảnh vào cuộc sống của chúng ta, khi Ngài khiến cho chúng ta phải đau khổ, chúng ta cũng trở nên giận dữ. Khi Ngài làm ra những điều mà chúng ta không hiểu được, chúng ta cảm thấy thất vọng và chao đảo. Chúng ta muốn Đức Chúa Trời giải thích mọi lý do cùng các mục đích của Ngài làm cho chúng ta biết, giống như Mary và Giôsép mong đợi Chúa Jêsus xưng công bình các hành vi của Ngài vậy.
Mary và Giôsép đã sai lầm vì họ quên bẳng đi loài người (tôi nói chung chung) thẩm quyền của họ không thể cao hơn đứa trẻ 12 tuổi mà Đức Chúa Trời đã phó thác cho họ chăm sóc một cách tạm thời. Và cho dù chỉ có một trường hợp nầy đã được tường thuật lại về thời thơ ấu của Chúa chúng ta khi uy quyền và lai lịch của Chúa Jêsus đã được mọi người xác nhận (phân đoạn Kinh Thánh cho chúng ta biết Ngài đã trở về với cha mẹ và chịu lụy họ sau sự việc nầy, câu 51), Ngài là Đức Chúa Trời trọn vẹn và vì thế có thể hành động cách độc lập, có quyền bính, nếu Ngài chọn làm như vậy và nếu sự việc phù hợp với ý chỉ của Cha Ngài. Chúa Jêsus đã nhắc cho cha mẹ Ngài nhớ Ngài là Con Đức Chúa Trời, đầu tiên và trước hết, trong sự vâng phục đối với Đức Chúa Trời, và được kêu gọi để bày tỏ ra “công việc của Cha Ngài”. Thì giờ sẽ đến khi Mary có lẽ không cho phép “con trai” bà phải lên thập tự giá, nhưng Ngài phải thực hiện điều nầy, trong sự vâng phục Cha chân thật của Ngài.
Bất cứ lúc nào quý vị và tôi thắc mắc về công việc của Đức Chúa Trời trong đời sống của chúng ta, bất cứ lúc nào chúng ta giận dữ (là điều chúng ta thường “thuộc linh” thú nhận) với Đức Chúa Trời, chúng ta tỏ ra rằng chúng ta đã đảo ngược sợi dây uy quyền thiêng liêng. Chúng ta thường hành động y như Đức Chúa Trời phải ở trong sự thuận phục với ý muốn của chúng ta, hơn là công nhận chính chúng ta phải thuận phục theo ý chỉ của Ngài, dù điều đó đem lại đau khổ, hay phiền phức, nếu chúng ta không hiểu những gì Ngài đang làm ra hay lý do tại sao. Giáo lý về quyền bính của Đức Chúa Trời nói rằng Đức Chúa Trời sẽ hành động y theo Ngài chọn lựa, không cần phải giải thích mọi hành động của Ngài cho con người biết, hoặc phải hỏi xin phép chúng ta.
Gióp nhất thời đã quên đi sự kiện nầy, và ở giữa nổi đau khổ ông bắt đầu chất vấn Đức Chúa Trời. Như James Dobson nói: Làm như vậy là quên “ai đang nắm quyền tể trị”. Chỉ khi Gióp được nhắc nhớ về quyền bính của Đức Chúa Trời, ông mới mau mau thôi không còn than vãn và chống đối nữa, và cầu xin sự tha thứ. Chúng ta hãy làm theo y như vậy.
Phần ứng dụng
Chúng ta phải cẩn thận trong cách thức chúng ta ứng dụng sự dạy dỗ của phân đoạn nầy. Chúng ta cần phải phân biệt giữa việc nào quan hệ với Chúa chúng ta, là Emmanuên, Đức Chúa Trời trong loài xác thịt, và những việc trong đó Chúa chúng ta là một tấm gương cho mọi người. Một cuộc tìm kiếm nhỏ về điều nầy sẽ xác minh sự ích lợi. Chúng ta hãy làm theo bằng cách thiết lập vài nguyên tắc từ những gì chúng ta đã học được, và rồi khảo sát tỉ mỉ mọi hàm ý của chúng.
Chỉ có Chúa chúng ta mới được gán cho Ngài là Đức Chúa Trời và là Người, rồi vì thế có thể hành động ngược lại với sự chấp thuận của cha mẹ Ngài, như Ngài đã làm qua việc ở lại thành Giêrusalem. Con cái của chúng ta không dám lấy Chúa Jêsus làm gương cho mọi hành vi của chúng với lý tưởng cha mẹ chúng sai quấy thì chúng được tự do làm theo mọi sở thích riêng của mình. Sự đầu phục của Chúa liên tục đối với cha mẹ của Ngài sau sự việc nầy có ảnh hưởng chống lại mọi quyết định như thế.
Và rồi ở đây có một nguyên tắc, nó quản trị mọi hành động của Chúa chúng ta, và nguyên tắc ấy cũng quản trị mọi hành vi của chúng ta nữa. Nguyên tắc ấy là: NẾU ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA CHÚNG TA, THÌ CHÚNG TA PHẢI HOÀN TOÀN ĐẦU PHỤC NGÀI, VÀ KHÔNG ĐẦU PHỤC BẤT KỲ MỘT UY QUYỀN NÀO THUỘC VỀ ĐỜI NẦY, KHI PHẢI LỰA CHỌN TRONG CẢ HAI.
Khi con người chọn bước theo Đức Chúa Trời, họ phải làm như vậy bằng cách bước theo thẩm quyền tuyệt đối, tối cao trong đời sống của họ. Khi thẩm quyền thuộc đời nầy trực tiếp đòi hỏi họ, thì phải nói như các sứ đồ: “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” (Công vụ các sứ đồ 5.29). Chúa chúng ta đã thực hiện câu nầy rất rõ ràng, tôi tin khi Ngài đòi hỏi điều đó nơi các môn đồ chịu bước theo Ngài, phải đặt Ngài cao hơn hết mọi quyền bính và bó buộc của đời nầy:
“Vì từ nay về sau, nếu năm người ở chung một nhà, thì sẽ phân li nhau, ba người nghịch cùng hai, hai người nghịch cùng ba; cha nghịch cùng con trai, con trai nghịch cùng cha; mẹ nghịch cùng con gái, con gái nghịch cùng mẹ; bà gia nghịch cùng dâu, dâu nghịch cùng bà gia” (Luca 12.52-53).
“Có đoàn dân đông cùng đi với Đức Chúa Jêsus; Ngài xây lại cùng họ mà phán rằng: Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta” (Luca 14.25-26; cũng đối chiếu Mác 10.7, 29-30; Luca 9.59-62).
Nguyên tắc nầy có phần ứng dụng cho bậc làm cha mẹ, cũng như cho con cái. Nguyên tắc ấy muốn rằng ai trong chúng ta là những người đã có con cái, giống như Mary và Giôsép, đều công nhận rằng Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt họ trong một đường lối thật đắt giá và nhiều khó nhọc đối với chúng ta, nhưng đấy lại là ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong trường hợp đó, chúng ta sẽ không đứng trên con đường theo Chúa của con cái chúng ta. Chúng ta không nên buộc con cái mình phải vâng theo Đức Chúa Trời chống lại mọi sự dạy dỗ của chúng ta (dù ám chỉ hay tuyên bố ra).
Có một nguyên tắc thứ hai rất hiển nhiên trong phân đoạn Kinh Thánh: KHÔNG MỘT ĐIỀU GÌ NGĂN TRỞ CHÚNG TA KHÔNG TIẾP CẬN ĐƯỢC VỚI NHỮNG VIỆC GÓP PHẦN VÀO SỰ TẤN TỚI THUỘC LINH CỦA CHÚNG TA.
Trong khi tôi không nguỵ tạo ra là đã nắm lấy đầy đủ bằng cách nào hay tại sao Chúa chúng ta đã lớn lên, rõ ràng đối với tôi ấy là tại đền thờ và có cơ hội hỏi han các thầy thông giáo nhiều câu hỏi là rất quan trọng cho sự lớn lên của Chúa chúng ta. Điều nầy rất quan trọng đối với Ngài đến nỗi Ngài thấy thật là cần thiết phải hành động ngược lại với mọi ước muốn của cha mẹ mình.
Nếu sự lớn lên của Chúa chúng ta quan trọng như thế đối với Ngài, lẽ nào sự tấn tới về mặt thuộc linh lại không quan trọng đối với chúng ta? Ở trong đền thờ, trao đổi với các thầy thông thái trong thời đó, là một phương tiện cho sự lớn lên của Chúa chúng ta, giữa vòng nhiều việc khác (tiếp xúc với Kinh Thánh, sự dạy dỗ của cha mẹ…). Đức Chúa Trời đã cung ứng phương tiện nào cho sự lớn lên của chúng ta, mà chúng ta không để cho các việc khác xen vào? Tôi muốn đề nghị vài phương tiện cho sự tra xét của quý vị, rồi quý vị có thể thêm vào những điều khác nữa. Kinh Thánh rất quan trọng cho sự lớn lên của chúng ta, cho nên chẳng có một điều chi cản trở không cho chúng ta tiếp xúc với Kinh Thánh hết (Thi thiên 19.7-14; 119 [toàn thể Thi thiên nầy]; Công vụ các sứ đồ 20.32; Rôma 16.25-26; II Timôthê 3.14-17; Hêbơrơ 13.9; Giacơ 1.21-22; I Phierơ 2.2; II Phierơ 2.2-4). Cũng một thể ấy, sự gây dựng và dạy dỗ do nhiều người khác trong thân thể của Đấng Christ cũng đòi hỏi sự nhóm lại và tham dự đều đặn trong sự thờ phượng của Hội thánh (đối chiếu Thi thiên 73.17; Rôma 14-15; I Côrinhtô 12-14; Êphêsô 4.1-16; Hêbơrơ 10.23-25). Cầu nguyện là phương tiện quan trọng khác cho việc việc tương giao với Đức Chúa Trời và cho sự lớn lên (Êphêsô 6.18; I Têsalônica 5.18). Sau cùng, sự vâng phục mọi điều chúng ta biết là ý chỉ của Đức Chúa Trời chính là chìa khoá cho sự tấn tới sâu xa hơn của chúng ta (đối chiếu Mathiơ 7.24-27; Mác 4.21-25). Không một điều chi ngăn trở chúng ta không tiếp cận với các phương tiện quan trọng cho sự tấn tới như thế nầy.
Còn có nguyên tắc khác rất hợp lý và thích đáng trong đời sống Cơ đốc, hiện hữu rõ ràng ở đây: THẬT KHÓ CHO NGƯỜI TIN CẢ CHÚA VÀ CON NGƯỜI, HỌ CÔNG NHẬN CẢ HAI MÀ KHÔNG CHỊU HY SINH BÊN NẦY HAY BÊN KIA.
Cha mẹ của Chúa chúng ta đã vất vả không biết phân biệt các khía cạnh của bổn tánh của Chúa chúng ta, nhân tánh và thần tánh của Ngài. Trong phân đoạn Kinh Thánh, nhân tánh của Chúa Jêsus đã vượt cao hơn hẳn mọi sự suy tưởng của họ đến nỗi họ quên tính đến thần tánh của Ngài, là nền tảng cho mọi hành động và đáp ứng của Chúa Jêsus đối với họ.
Không cứ cách nào, Đức Chúa Trời có quyền đan dệt nhân tánh và thần tánh lại với nhau. Vì thế, trong sự tỏ bày ra chương trình cùng mọi lời hứa thiêng liêng của Ngài, Đức Chúa Trời có quyền sử dụng chiếu chỉ của vị vua ngoại đạo để sắp đặt cho Đấng Mêsi đến tại thành Bếtlêhem, hơn là tại thành Naxarét. Đức Chúa Trời sau đó sử dụng các nhà lãnh đạo tôn giáo của Ysơraên và chính quyền La mã để đưa tới cái chết mang tính cách hy sinh, thay thế của Con Ngài.
Vấn đề khó giải quyết đối với chúng ta: ấy là phương thức Đức Chúa Trời đan dệt nhân tánh và thần tánh lại với nhau trong kinh nghiệm riêng của chính chúng ta. Quý vị và tôi đang có cùng một cuộc tranh chiến, tôi tin, với sự công nhận cả hai yếu tố nhân tánh và thần tánh trong đời sống Cơ đốc của chúng ta. Một minh hoạ cho điều nầy: ấy là xác nhận mối căng thẳng giữa yếu tố uy quyền của Chúa, cùng với yếu tố trách nhiệm của con người. Quý vị thấy đấy, cuộc tranh chiến của Mary và Giôsép không phải là duy nhất như đã được tỏ ra. Có một loại hoá thân thành nhục thể đang diễn ra trong đời sống của từng Cơ đốc nhân. Chúng ta không chối bỏ thần tính cũng không chối bỏ nhân tính trong những gì Đức Chúa Trời đang thực hiện trong đời sống của chúng ta.
Nguyên tắc sau cùng mà tôi tin là chìa khoá cho toàn thể phân đoạn Kinh Thánh: VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG NHẤT, VẤN ĐỀ QUYẾT ĐỊNH MỌI SỰ KHÁC TRONG CUỘC SỐNG, LÀ TRẢ LỜI CÂU HỎI: “ĐỨC CHÚA JÊSUS CHRIST LÀ AI?”.
Hãy thiết lập sự kiện Đức Chúa Jêsus Christ chính là Đức Chúa Trời trọn vẹn, cũng như là con người trọn vẹn, và mọi sự trong phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta có ý nghĩa ngay. Thật dễ nhìn xem tại sao Chúa Jêsus phải có mặt trong nhà của Cha Ngài, và đồng thời dễ đồng cảm với cuộc tranh chiến đã được tạo ra nơi Mary và Giôsép.
Chấp nhận hay chối bỏ Chúa Jêsus trong sự trưởng thành về đời nầy và chức vụ của Ngài có thể lên tới cao điểm khi trả lời một câu hỏi duy nhất: “Đức Chúa Jêsus Christ là ai?” Sự chối bỏ Đấng Christ bởi các thầy thông giáo và người Pharisi, họ đã kiến tạo ra cái chết của Ngài, được giải thích bằng sự kiện cho rằng họ đã chối bỏ lời xưng nhận của Ngài là Con Đức Chúa Trời (đối chiếu Giăng 8). Họ khăng khăng thách thức mọi hành động và sự dạy của Ngài bằng cách đòi phải biết rõ bởi thẩm quyền nào đang dạy dỗ. Tương tự, Chúa Jêsus đã hỏi các môn đồ: Ngài là ai?!? (Mathiơ 16.13-15).
Chấp nhận sự kiện Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời thì mọi điều khác chẳng còn có ý nghĩa gì nữa hết, bất quá chỉ là lý lẽ thôi, mọi điều Ngài đã làm đều hợp lý, phải lẽ, không thể bài bác được. Chối bỏ chỉ một sự kiện nầy thôi quý vị phải chối bỏ Ngài một cách hoàn toàn. Tôi mạn phép hỏi quý vị: “Đức Chúa Jêsus Christ là ai?” Quý vị nghĩ Ngài là ai chứ? Câu trả lời cho thắc mắc nầy sẽ an bài số phận đời đời của quý vị, và sẽ thiết lập một lần đủ cả vấn đề uy quyền trong đời sống của quý vị. Câu trả lời ấy sẽ tái sắp xếp lại mọi ưu điểm và giá trị của quý vị. Câu trả lời: “Đức Chúa Jêsus Christ là Con Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời đã hoá thân thành xác thịt, Ngài đã trở nên con người, ở giữa loài người và bày tỏ Đức Chúa Trời ra cho họ, bày tỏ ra tội lỗi của họ, và để trả giá hình phạt thay cho tội lỗi của họ bằng cái chết của Ngài trên thập tự giá tại đồi Gôgôtha”. Câu trả lời thừa nhận Đấng Christ cũng quyết định lai lịch của quý vị, là quý vị có thuộc về cha mình, là ma quỷ (đối chiếu Giăng 8.31-47), hay Cha của quý vị chính là Đức Chúa của vũ trụ (Rôma 8.12-17).

BÀI 5: (Luca 2.21-40): "BÀI CA TỤNG CỦA SIMÊÔN VÀ LỜI CÔNG BỐ CỦA ANNE"



Phần giới thiệu
Phần văn mạch
Các nghi thức
Bài ca tụng của Simêôn
Lời tuyên bố của Anne (2.36-38).
Ý nghĩa và sứ điệp của Simêôn và Anne
Ứng dụng cho Cơ đốc nhân đương thời
BÀI 5
BÀI CA TỤNG CỦA SIMÊÔN VÀ LỜI CÔNG BỐ CỦA ANNE
(Luca 2.21-40)

Phần giới thiệu
Tôi có nghe kể câu chuyện nói về con khỉ trong sở thú, nó cầm trong tay nầy quyển Kinh Thánh và ở tay kia là quyển sách nói về căn nguyên của muôn loài do Darwin viết. Khi người bảo vệ sở thú hỏi nó đang làm gì thế, nó mới đáp rằng: “Ta đang quyết định ta là người giữ em ta, hay em ta là người giữ ta”.
Tôi nghĩ đến câu chuyện nầy trong sự kết hợp với Simêôn là người chắc chắn sẽ có nhiều bối rối ở một số việc mà ông ta có thể đọc thấy hôm nay. Thí dụ, quý vị có thể hình dung Simêôn – một người mà chúng ta xem là đã cao tuổi lắm rồi, ông đang đọc một quyển sách nói về cơn khủng hoảng giữa đời. Dù nội dung của quyển sách là gì đi nữa, tôi nghĩ Simêôn sẽ thấy đọc như thế thì không thể tin nổi được. Thực ra, tôi không dám chắc có ai từng gặp khủng hoảng ở giữa cuộc đời cho tới mới đây thôi (cùng với một số tai vạ đương thời). Cơn khủng hoảng giữa đời, theo tôi hiểu, thường giáng cho con người ở độ tuổi trung niên vì họ nhận thấy mục tiêu mà họ đã định cho cuộc sống của họ (hoặc xã hội đã bắt họ phải gánh chịu) đều không đạt được. Cơn khủng hoảng giữa đời xảy đến vì chúng ta thấy sức lực và tiềm năng của chúng ta đang tàn lụi và các mục tiêu của chúng ta thoáng xa dần đi không còn với tới được nữa.
Simêôn và Anne có được nhiều điều so với nền văn hoá của chúng ta, và đặc biệt đối với những Cơ đốc nhân nào hiện đang thuộc về nền văn hoá ấy. Sự xuất hiện của hai thánh đồ rất tin kính trong đền thờ, ở đó họ nhìn nhận và xưng Chúa Jêsus là Đấng Mêsi của Ysơraên, là sự cố mà Luca đã chọn để làm nổi bật tình tiết quan trọng nhất trong tuổi ấu thơ của Đấng Christ, thêm vào với sự thăm viếng của mấy gã chăn chiên cách đó ít ngày. Sự trung tín của họ trong việc trông mong vào sự mau đến của Chúa quả thực là một lời quở trách và là một niềm khích lệ cho mỗi Cơ đốc nhân. Các mục tiêu và những điều ưu tiên một, cùng sự thể hiện bền đỗ về sự công bình của họ đều hoàn toàn thẳng thắn chân thành trong sự trực tiếp chống lại những gì nền văn hoá của chúng ta tán thành. Thực vậy, họ cũng sống trong sự đối kháng với các quan điểm cùng các giá trị nổi bật và thịnh hành nhất trong nền văn hoá Cơ đốc của chúng ta. Chúng ta cần phải suy nghĩ cho thật kỹ về phân đoạn nầy, vì nếu chúng ta phải noi theo gương của Simêôn và Anne thì các mục tiêu của chúng ta sẽ thay đổi, cung cách sống của chúng ta sẽ phải đơn giản hoá, và cơn khủng hoảng giữa đời của chúng ta sẽ biến thành hơi nước tan đi.
Phần văn mạch
Chương thứ nhất của sách Tin lành Luca đề cao sự xuất hiện người tiền khu của Đấng Mêsi, là Giăng Báptít. Được kết với câu chuyện nói tới sự ông ra đời cùng các biến cố chọn lọc trong đời sống của ông là tường trình về sự thăm viếng Mary bởi thiên sứ Gápriên, Ngài thông báo cho nàng biết về sự thai dựng kỳ diệu qua nữ đồng trinh của con trẻ sẽ sanh ra bởi nàng, là Đấng Mêsi của Ysơraên, là Người – Trời và sự Mary chia sẻ điều nầy với Êlisabét. Trong các câu 1-20 của chương hai Luca đã ghi lại sự giáng sinh của Chúa chúng ta và lời công bố Đấng Christ ra đời của thiên sứ cho mấy gã chăn chiên, họ đã mau mau đến nhìn xem con trẻ thánh, quấn bằng khăn và được đặt nằm trong máng cỏ.
Phần còn lại của chương hai sách Luca mô tả hai sự cố quan trọng trong thời thơ ấu của Chúa chúng ta, cả hai đều diễn ra trong đền thờ tại thành Giêrusalem, được phân ra trong khoảng 12 năm. Câu 21-40 nhắm vào Simêôn và Anne, hai người nhìn nhận con trẻ Jêsus là Đấng Mêsi được hứa cho Ysơraên, và cả hai công khai ngợi khen Đức Chúa Trời vì sự ban cho nầy và công bố ra các tin tức tốt lành cho những người nào đang trông đợi sự ứng nghiệm mọi lời hứa của Đức Chúa Trời cho dân Ysơraên của Ngài. Phần sau cùng của chương diễn ra 12 năm sau đó, khi Chúa Jêsus cùng với cha mẹ Ngài lên thành Giêrusalem, và rồi đã ở lại đàng sau, vì công việc của Cha Ngài trong Nhà của Cha Ngài.
Chương thứ hai của sách Luca chứa câu chuyện duy nhất trong Kinh Thánh nói về sự giáng sinh của Chúa Jêsus. Tin lành Mathiơ cung cấp câu chuyện khác duy nhất trong Kinh Thánh nói về một sự cố thời thơ ấu của Đấng Mêsi. Ông ghi lại sự đến viếng của các thầy bác sĩ, tính đa nghi của Hêrốt đã khiến ông ta ra lệnh giết các con trẻ ở Bếtlêhem với nổ lực tìm giết Đấng Mêsi, và cuộc trốn tránh của gia đình thánh sang Aicập, để bảo toàn sanh mạng cho con trẻ. Các học giả Kinh Thánh không dám chắc về hai câu chuyện đã được ghi lại trong Kinh Thánh, câu chuyện thuật lại về các thầy bác sĩ trong sách Mathiơ và câu chuyện thuật lại về Simêôn và Anne có một sự liên tiếp về mặt thứ tự theo thời gian hay không?!? Kinh Thánh cho biết rằng ngay sau khi Chúa Jêsus giáng sinh, mấy gã chăn chiên đã đến thăm, sau đó không lâu thì Chúa Jêsus chịu phép cắt bì, rồi được đem dâng trên đền thờ, ở đây đã có Simêôn và Anne. Gia đình đã tìm được chỗ trọ thường trực (đối chiếu ‘nhà’ trong Mathiơ 2.11) tại thành Bếtlêhem, ở đây mấy thầy bác sĩ sau một thời gian đã đến viếng, có lẽ khoảng chừng hai năm (đối chiếu Mathiơ 2.7, 16). Khi ấy gia đình mới trốn sang Aicập, và trên đường họ trở lại, họ chuyển vào Naxarét, chớ không vào Bếtlêhem để làm ứng nghiệm Kinh Thánh (Mathiơ 2.19-23). Luca không ghi lại một số biến cố xen giữa nầy, mà chỉ nói cho chúng ta biết gia đình của Chúa Jêsus đã trở về Naxarét (Luca 2.39), ở đây Đấng Mêsi đã sống khoảng thời gian thiếu thời. Luca ưu tiên cho lần thăm viếng đền thờ của Ngài lúc 12 tuổi (Luca 2.41…).
Những nghi thức
Đã đến lúc phải phân biệt ba nghi thức đã được đề cập đến trong bài học của chúng ta vì chúng ta có khuynh hướng hay lẫn lộn các nghi thức nầy thành một trường hợp, hơn là xem chúng theo cách riêng, cả về thời điểm và về trình tự. Nghi thức đầu tiên: đó là phép cắt bì, được đề cập tới trong câu 21. Sự cố nầy có lẽ đã diễn ra tại nơi gia đình sinh sống, chớ không phải tại đền thờ. Phép cắt bì nầy diễn ra vào ngày thứ 8, theo quy định mà Đức Chúa Trời đã truyền cho Ápraham (Sáng thế ký 17.9-14) và theo quy định bởi luật pháp Môise (Lê vi ký 12.3). Kết với phép cắt bì là việc đặt tên cho con trẻ (đối chiếu Luca 1.59-63, 2.21).
Phần trình dâng đứa con đầu lòng là nghi thức thứ hai mà bài học chúng ta ghi lại. Nghi thức nầy cũng là một đòi hỏi của luật pháp, mà Luca có kể đến:
“Hễ con trai đầu lòng, phải dâng cho Chúa” [theo bản Kinh Thánh Anh ngữ câu nầy đọc như sau: HỄ CON TRAI ĐẦU MỞ TỬ CUNG NGƯỜI MẸ PHẢI ĐƯỢC GỌI LÀ THÁNH CHO ĐỨC GIÊHÔVA”] (Luca 2.23; trích từ Xuất Êdíptô ký 13.2; đối chiếu Dân số ký 18.15-17).
Từ nội dung của câu chép từ sách Xuất Êdíptô ký chúng ta biết rõ trong lúc trận dịch sau cùng mà Đức Chúa Trời đã giáng xuống Aicập, hết thảy con trai đầu lòng ở Aicập đều bị giết chết, cả loài người và loài thú, trong khi những con trai đầu lòng của dân Ysơraên (nghĩa là, gia đình nào có bôi huyết Chiên Con Lễ Vượt Qua trên mày cửa) đều được sống. Sự chuộc lấy con trai đầu lòng bị Đức Chúa Trời đòi hỏi vì con trai đầu lòng được Ngài buông tha và vì thế phải thuộc về Ngài. Khi một gia đình Ysơraên chuộc lấy con trai mình, họ đã công nhận rằng con trẻ nầy đã thuộc về Đức Chúa Trời.
Giá chuộc cho con trai Ysơraên đầu lòng hơn một tháng tuổi là 5 siếc lơ bạc theo nơi thánh trong Dân số ký 18.16. Rõ ràng lễ trình dâng đứa con dầu lòng đã diễn ra sớm hơn 31 ngày sau khi ra đời. Vì thế, lễ trình dâng con trẻ và lễ làm cho tinh sạch người mẹ (nghi thức thứ ba), đã được thực hiện chung với lần thăm viếng đền thờ.
Nghi thức thứ ba là lễ làm tinh sạch cho Mary, luật pháp đòi hỏi sau khi sanh một đứa con. Trong sách Lê vi ký chương 12 chúng ta được thuật lại cho biết rằng người đờn bà theo nghi thức bị ô uế sau khi sinh con. Đối với việc sanh con trai, người đờn bà bị ô uế trong 7 ngày (12.2), và không được vào trong nơi thánh trong vòng 33 ngày khác (12.4). Đối với việc sanh con gái, thời gian nhân đôi lên. Người đờn bà chịu ô uế trong 14 ngày và không được vào trong nơi thánh trong vòng 66 ngày (12.5). Điều nầy có nghĩa là Chúa Jêsus mới được khoảng 6 ngày tuổi lúc làm lễ dâng con. Của lễ là hai con chim bồ câu cho thấy rằng Mary và Giôsép là người nghèo, theo điều khoản dành cho người nghèo (Lê vi ký 12.6-8).
Đó là nghi thức thứ hai, lễ dâng Chúa Jêsus tại đền thờ, là điều nổi bật nhất của câu chuyện Luca viết (Luca 2.27). Chính tại cơ hội nầy mà Simêôn và Anne mới xuất hiện, làm chứng và tuyên bố con trẻ Jêsus là Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời, Cứu Chúa của thế gian.
Lễ cắt bì của Con Trẻ (2.21)
Phép cắt bì cho Con Trẻ Christ không nổi bật lắm trong phân đoạn, nhưng phép ấy đáng chú ý. Thứ nhất, phép cắt bì nầy ghi lại những điều xác nhận sự thật cha mẹ của Chúa chúng ta: “đã làm trọn mọi việc theo luật pháp Chúa rồi” (Luca 2.39). Thứ hai, phép cắt bì của Đấng Christ tương đương với phép cắt bì của Giăng, đã được mô tả ở trên (Luca 1.59…). Sau cùng, chính tại phép cắt bì của Đấng Christ mà tên của Ngài mới được đặt theo hình thức. Tên Jêsus, là tên đã được xác định khi Ngài ra đời, cả cho Giôsép và Mary:
“Người sẽ sanh một trai, ngươi khá đặt tên là JÊSUS, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội” (Mathiơ 1.21).
“Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là JÊSUS” (Luca 1.31).
Hình thức Hêbơrơ của danh Chúa Jêsus là “Jeshua” (đối chiếu Joshua [Giôsuê]), được rút ra do sự kết hợp hai chữ gốc, có nghĩa là “Chúa Giêhôva”“giải cứu”. Cho nên, Jêsus có nghĩa là “Đức Giêhôva là sự cứu rỗi”. Tôi tin rằng danh Jêsus, mà Luca thuật lại cho chúng ta theo hình thức đã được ban cho Cứu Chúa vào thời điểm chịu phép cắt bì của Ngài, là một trong những biểu hiện của Simêôn rằng con trẻ nầy, Jêsus (sự cứu rỗi của Đức Giêhôva), chính là Đấng Mêsi được hứa cho. Vì vậy Simêôn nói:
“Vì con mắt tôi đã thấy sự cứu vớt của Ngài” [nghĩa là, Jêsus, sự cứu rỗi của Đức Giêhôva] (Luca 2.30).
Lễ dâng Chúa Jêsus tại đền thờ (2.22-38)
Kết hợp với lễ dâng Chúa Jêsus tại đền thờ là sự xuất hiện của Simêôn và Anne, và họ nói ra những lời được sự cảm thúc thiêng liêng, nhìn nhận con trẻ Christ là Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy xem xét hai thánh đồ cao thượng nầy để khám phá có điều chi nơi họ mà Luca thấy xứng đáng có một chỗ vinh dự trong tình tiết hiếm hoi của câu chuyện ông viết về thời thơ ấu của Đấng Christ.
Bài ca tụng của Simêôn
Simêôn là một con người rất giống với Mênchixêđéc trong Cựu ước, không biết ông ở đâu hiện đến. Chúng ta được thuật lại rất ít về con người Simêôn nầy. Chúng ta không biết ông thuộc vào chi phái nào, mặc dù rõ ràng ông là một người Do thái. Chúng ta không biết điều chi về gia đình ông, ông có lập gia đình hay có con cái chưa. Chúng ta không được thuật cho biết ông làm nghề gì, nhưng rõ ràng ông không phải là thầy tế lễ, vì ông đã được Đức Thánh Linh hướng dẫn trực tiếp phải đi đến đền thờ.
Nhưng việc duy nhất chúng ta được thuật lại cho biết về Simêôn là những việc có tầm quan trọng đối với Đức Chúa Trời mà thôi – những việc có quan hệ với đức tin và bổn tánh của ông, những việc thuật lại cho biết về mối tương giao của ông với Đức Chúa Trời. Chúng ta được thuật cho biết Simêôn là người công bình đạo đức (câu 25), là điều nói tới cách ăn ở cá nhân của ông với Đức Chúa Trời và tính ngay thẳng của ông giữa vòng dân sự. Thêm nữa, ông là một con người có đức tin và sự trông cậy, vì ông: “trông đợi sự yên ủi của dân Ysơraên” một mệnh đề tóm tắt đức tin của thánh đồ Cựu ước nơi các lời hứa của Đức Chúa Trời về sự phục hưng Ysơraên qua sự đến của Đấng Mêsi.
Sau cùng, Simêôn là một con người đã được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Chính Đức Thánh Linh là Đấng đã bày tỏ cho Simêôn thấy ông sẽ không chết cho tới chừng nào ông nhìn thấy Đấng Christ của Chúa (câu 26), là Đấng Chịu Xức Dầu của Đức Chúa Trời, là Đấng Mêsi của Ysơraên. Cũng chính Đức Thánh Linh đã hướng dẫn Simêôn vào đền thờ vào cái ngày rất đặc biệt khi cha mẹ Chúa Jêsus đem Ngài dâng cho Chúa Giêhôva. Rốt lại, trong một đường lối không rõ rệt, chính Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã tỏ cho Simêôn biết rằng con trẻ nầy quả thực chính là Đấng Mêsi. Không nghi ngờ chi nữa, danh Jêsus là một bằng chứng, nhưng còn thêm một sự khẳng định nữa, vì không có nhiều con trẻ nam được đặt theo cái tên đặc biệt nầy trong ngày đó.
Cách dùng thuật ngữ mà bởi đó Simêôn có khả năng công nhận đứa trẻ 6 tuần tuổi nầy phân biệt với những đứa trẻ khác thì không được thuật lại cho chúng ta, theo chúng ta biết vì Luca vốn không chú ý nhiều đến chỗ làm sao mà Ngài đã được công nhận, nhưng Ngài đã được nhìn nhận bởi một nhân vật tin kính, một người đầy dẫy Đức Thánh Linh, là Đấng Christ của Chúa Giêhôva.
Sự công nhận Chúa Jêsus là Đấng Mêsi, nhân vật cao tuổi nầy đã bồng lấy con trẻ trên tay mình mà ngợi khen Đức Chúa Trời. Sau một thời gian tìm kiếm Đấng Mêsi, một người khó có thể tưởng tượng nổi niềm vui mừng của Simêôn vào thời điểm nầy. Hãy suy nghĩ về sự mừng vui ấy, một người vốn biết rõ Đức Chúa Trời đã bồng ẵm mình trong lòng bàn tay của Ngài, bây giờ đang bồng lấy Đức Chúa Trời trong hai vòng tay của mình! Đức Chúa Trời toàn năng là một đứa bé nhỏ xíu, dường như chẳng có sức lực gì hết. Lời ngợi khen của Simêôn bày tỏ ra niềm vui sâu sắc của ông trong chính thì giờ đó, một niềm vui thật trọn vẹn và hoàn toàn cho cả cuộc đời ông đến nỗi ông sẵn sàng chịu chết:
“Lạy Chúa, bây giờ xin Chúa cho tôi tớ Chúa được qua đời bình an, theo như lời Ngài; Vì con mắt tôi đã thấy sự cứu vớt của Ngài” (Luca 2.29-30).
Tuy nhiên, sự cứu rỗi mà Simêôn đã nhìn thấy không phải chỉ một mình ông nhìn thấy, vì vậy ông mới nói thêm rằng đó là một sự cứu rỗi mà nhiều người sẽ nhìn thấy và dự phần:
“Vì con mắt tôi đã thấy sự cứu vớt của Ngài, Mà Ngài đã sắm sửa đặng làm ánh sáng trước mặt muôn dân, SOI KHẮP THIÊN HẠ, Và làm vinh hiển cho dân Y-sơ-ra-ên là dân Ngài” (Luca 2.30-32).
Đối với những việc mà Simêôn đã chứng kiến, chúng không giấu kín đối với người khác. Người ta có thể xác nhận đấy là việc của Đức Chúa Trời, nhưng mọi người ở thành Giêrusalem, theo như Mathiơ đã thuật lại cho chúng ta biết, ho đều biết Đấng Mêsi mà mấy thầy bác sĩ đã đi tìm, nhưng thay vì phải vui mừng dân sự lại thấy “bối rối” (Mathiơ 2.3). Như chúng ta đã được thuật lại cho biết, không một ai từ thành Giêrusalem chịu thực hiện hành trình dễ dàng đến Bếtlêhem để nhìn xem con trẻ mới ra đời, được ngôi sao bên đông phương chứng thực cho.
Trong khi Simêôn là một người Do thái tin kính, ông đã không xem sự đến của Đấng Mêsi chỉ là ích lợi cho dân Do thái thôi đâu. Đấng Mêsi là Vua của Ysơraên, Ngài sẽ “ngồi trên ngôi Đavít tổ phụ Ngài”, là sự vinh hiển của Ysơraên, nhưng Đấng Mêsi cũng là “ánh sáng soi khắp thiên hạ”. Nghĩa là, Đấng Mêsi đã đến làm sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho nhân loại, chớ không riêng cho người Do thái. Lẽ thật nầy đã được truyền dạy trong Cựu ước, và lời nói của Simêôn dường như tỏ ra tri thức của ông về những lời tiên tri trong Cựu ước nói về ơn cứu rỗi cho dân Ngoại cũng như cho dân Ysơraên. Thí dụ, hãy xét qua các câu nầy, với chúng Simêôn rất quen thuộc, và ông đã nói bóng gió trong lời ngợi khen của mình:
“ĐỨC GIÊ-HÔ-VA đã tỏ cho biết sự cứu rỗi Ngài, Và lộ ra sự công bình Ngài trước mặt các nước. Ngài đã nhớ lại sự nhân từ và sự thành tín của Ngài đối cùng nhà Y-sơ-ra-ên; Các đầu đất đã thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chúng tôi” (Thi thiên 98.2-3).
“Ta, ĐỨC GIÊ-HÔ-VA, đã kêu gọi ngươi trong sự công bình; ta sẽ nắm tay ngươi và giữ lấy ngươi. Ta sẽ phó ngươi làm giao ước của dân nầy, làm sự sáng cho các dân ngoại, để mở mắt kẻ mù, làm cho kẻ tù ra khỏi khám, kẻ ngồi trong tối tăm ra khỏi ngục. Ta là ĐỨC GIÊ-HÔ-VA; ấy là danh ta. Ta chẳng nhường sự vinh hiển ta cho một đấng nào khác, cũng không nhường sự tôn trọng ta cho những tượng chạm!" (Êsai 42.6-8, đối chiếu 49.6).
“ĐỨC GIÊ-HÔ-VA đã tỏ trần cánh tay thánh Ngài trước mắt mọi nước; mọi đầu cùng đất đã thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chúng ta!” (Êsai 52.10).
“Hãy dấy lên, và sáng lòe ra! Vì sự sáng ngươi đã đến, và vinh quang ĐỨC GIÊ-HÔ-VA đã mọc lên trên ngươi. Nầy, sự tối tăm vây phủ đất, sự u ám bao bọc các dân; song ĐỨC GIÊ-HÔ-VA dấy lên trên ngươi, vinh quang Ngài tỏ rạng trên ngươi. Các dân tộc sẽ đến nơi sự sáng ngươi, các vua sẽ đến nơi sự chói sáng đã mọc lên trên ngươi” (Êsai 60.1-3).
Hãy tưởng tượng phần tác động mà các hành động và khẳng định của Simêôn đã có trên Giôsép và Mary. Luca chỉ tóm tắt điều nầy bằng câu:
“Cha mẹ con trẻ lấy làm lạ về mấy lời người ta nói về con” (Luca 2.33).
Kinh ngạc lắm. Thêm một ít lạ lùng. Chắc chắn có người đến nhìn xem Ngài: “Đứa bé đáng yêu lắm” “Hãy nghe đây, đây là một đứa trẻ không bình thường, đây là Cứu Chúa của thế gian”. Nhưng đấy là một việc hoàn toàn khác khi một người có lẽ hoàn toàn là một người lạ đang bước lên và chỉ ra đứa con của quý vị, một đứa con giống như đứa bé trai 6 tuần tuổi nào khác, là Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời.
Có lẽ trong phản ứng lại với nét kinh ngạc trên gương mặt của Mary và Giôsép, Simêôn bước tới chúc phước cho họ, và đưa ra một lời tiên tri rất đặc biệt cho Mary:
“Si-mê-ôn bèn chúc phước cho hai vợ chồng, nói với Ma-ri, mẹ con trẻ rằng: Đây, con trẻ nầy đã định làm một cớ cho nhiều người trong Y-sơ-ra-ên vấp ngã hoặc dấy lên, và định làm một dấu gây nên sự cãi trả; còn phần ngươi, có một thanh gươm sẽ đâm thấu qua lòng ngươi. Ấy vậy tư tưởng trong lòng nhiều người sẽ được bày tỏ” (Luca 2.34-35).
Có phải Simêôn chỉ nói với Mary, trong khi ông chúc phước cho cả Mary và Giôsép có ngụ ý đấy là lời tiên tri kín đáo nói về cái chết của Giôsép không? Ít nhất chúng ta đang nhìn thấy một sự chính xác gây ấn tượng trong lời nói của Simêôn.
Tới thời điểm nầy, mọi lời nói có quan hệ đến Chúa Jêsus đều rất lạc quan, chỉ ra sự cai trị của Ngài trên ngôi Đavít, sửa ngay lại mọi việc sai lầm, đem sự bình an và sự cứu rỗi đến cho loài người. Nhưng Simêôn lúc nầy để lộ ra khía cạnh khác của câu chuyện, cũng là một phần của những lời tiên tri trong Cựu ước, tỉ như những câu nói trong Thi thiên 22 hay Êsai 53, những lời tiên tri nói tới sự chối bỏ, sự đóng đinh trên thập tự giá, và sự chết của Đấng Mêsi, những lời tiên tri nói tới sự chuộc tội mang tính cách thay thế của Ngài. Vì thế lời tiên tri của Simêôn nhận định sự đến của Đấng Christ như bày tỏ ra tấm lòng của nhiều người, và để phân rẽ con người, hầu cho câu chuyện nói về Ngài sẽ làm một cớ cho nhiều người vấp ngã hay dấy lên. Hơn nữa, lời nói của Simêôn sửa soạn Mary cho nỗi đau mà nàng phải gánh chịu, như sự nhiều người chối bỏ Con của nàng sẽ khiến cho nàng phải chứng kiến sự chết của Ngài trên thập tự giá. Quả thực điều nầy sẽ là một thanh gươm đâm thấu linh hồn nàng.
Lời tuyên bố của Anne (2.36-38)
Anne là một người đờn bà rất khác thường. Trong khi chúng ta được kể lại rất ít về những gì bà đã nói ra, chúng ta được cung cấp nhiều thông tin về lai lịch của bà hơn là Simêôn. Anne là một người Dothái, thuộc chi phái Ase, một trong 10 “chi phái bị hư mất” của Ysơraên, bị tản lạc trong cuộc phu tù ở Asiri. Bà cũng là một nữ tiên tri. Bà là một người đờn bà đã đứng tuổi, ít nhất là 84 tuổi, theo lời Luca ghi lại. Bà đã lập gia đình trong 7 năm trước khi chồng bà mất, và đã sống phần còn lại của đời mình như một goá phụ. Ngày và đêm bà đã ở trong đền thờ, cầu nguyện và kiêng ăn. Bà đã cầu nguyện và kiêng ăn vì việc gì? Luca không nói cho chúng ta biết, nhưng rõ ràng là bà, giống như Simêôn, đang trông đợi sự đến của Đấng Mêsi. Tôi tin Anne đã hiểu từ Cựu ước rằng “ngày của Đức Giêhôva” là một ngày xét đoán thiêng liêng, và Đấng Mêsi sẽ đến xử lý tội lỗi của Ysơraên. Cho nên, sự cầu nguyện và kiêng ăn là bằng chứng cho sự bà than khóc tội lỗi của dân Ysơraên.
Hãy xét qua những lời cầu nguyện và kiêng ăn của Anne theo ánh sáng của những lời nầy từ tiên tri Giôên:
“Hãy thổi kèn trong Si-ôn; hãy thổi vang ra trên núi thánh ta! Hết thảy dân cư trong đất khá đều run rẩy! Vì ngày của ĐỨC GIÊ-HÔ-VA đến, ngày ấy đã gần: tức là ngày mờ mịt và tối tăm, ngày của mây và sương mù… ĐỨC GIÊ-HÔ-VA phán: Bây giờ cũng hãy hết lòng trở về cùng ta, kiêng ăn, khóc lóc và buồn rầu. Hãy xé lòng các ngươi, và đừng xé áo các ngươi. Khá trở lại cùng GIÊ-HÔ-VA Đức Chúa Trời các ngươi; vì Ngài là nhân từ và hay thương xót, chậm giận và giàu ơn, đổi ý về sự tai vạ. Ai biết được Ngài sẽ chẳng xây lòng đổi ý, chẳng để lại phước lành sau mình…” (Giôên 2.1-2a, 12-14a).
Anne rõ ràng là một phụ nữ tin kính, một phụ nữ vốn ý thức về tội lỗi của Ysơraên, một phụ nữ đang trông đợi về sự mau đến của Đấng Mêsi. Các chi tiết trong cuộc đời Anne không được cung ứng để làm thoả mãn tánh tò mò của chúng ta, nhưng là những đầu mối cho bổn tánh của bà. Tôi tin rằng Luca đã dự trù cho độc giả phải suy ra bổn tánh lạ thường của người đờn bà nầy bằng cách tra xem các chi tiết mà ông đã cung ứng cho. Là goá phụ trẻ, việc tự nhiên cho Anne phải làm là lấy chồng. Bà đã có nhiều cơ hội. Là một thành viên của chi phái Ase bị hư mất, đấy là một động cơ mạnh mẽ để lấy chồng và sanh con cái, một khi chi phái nầy sắp sửa nằm trong mối nguy hiểm bị tuyệt chủng. Phần đóng góp lớn lao nhất của bà về phái yếu, cũng như sự chu toàn của bà về phần phụ nữ, dường như chỉ là lấy chồng và sanh con. Tuy nhiên, bà đã ở độc thân, đã sống cuộc đời mình trong đền thờ, chỉ lo cầu nguyện và kiêng ăn mà thôi.
Simêôn đã được cảm thúc mà lên đền thờ; Anne thì luôn luôn ở trong đó. Vì vậy bà “đã thình lình” đến ngay bối cảnh Mary, Giôsép, con trẻ Jêsus và Simêôn, ngay lúc Simêôn đang làm chứng con trẻ là Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời. Bà cũng bắt đầu cảm tạ Đức Chúa Trời. Còn hơn cả sự cảm tạ, bà bắt đầu loan báo các tin tức tốt lành cho hết thảy những ai trông đợi sự cứu chuộc của thành Giêrusalem. Sự thật cho thấy rằng bà vốn được mọi người nhìn biết là nữ tiên tri rồi, khiến cho phần làm chứng của bà càng có tác động lớn lao hơn.
Ý nghĩa và sứ điệp của Simêôn và Anne
Luca đã có nhiều tình tiết mà ông đã ghi lại cho Cơ đốc nhân biết, tuy nhiên ông lại chọn sự dâng con trẻ Jêsus cùng những lời công bố của Simêôn và Anne. Mục đích của ông trong việc lồng câu chuyện nầy vào bản tường trình thiêng liêng là gì, đâu là những lý do buộc ông phải đưa các sự ấy vào trong Kinh Thánh? Sứ điệp của phân đoạn nầy cho các thánh đồ đời này là gì, và cũng cho chúng ta nữa? Chúng ta hãy xét qua mục đích của phân đoạn nầy. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách đưa ra vài lưu ý.
(1) Tình tiết diễn ra trong đền thờ. Lễ dâng Chúa Jêsus đã diễn ra bình thường tại đền thờ trong thành Giêrusalem, nhưng có ý nghĩa rất đặc biệt cho sự xuất hiện của Ngài tại đền thờ, cả thời điểm dâng con và lúc 12 tuổi. Các tiên tri trong Cựu ước đã nói về sự xuất hiện của Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời tại đền thờ:
“Nầy, ta sai sứ giả ta, người sẽ dọn đường trước mặt ta; và Chúa mà các ngươi tìm kiếm sẽ thình lình vào trong đền thờ Ngài, tức là thiên sứ của sự giao ước mà các ngươi trông mong. Nầy, Ngài đến, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy” (Malachi 3.1).
Lần viếng đầu tiên của Chúa Jêsus trong đền thờ tại thành Giêrusalem, như đã được ghi lại trong sách tin lành Giăng (Giăng 2.13-25), đã bắt đầu với sự tẩy sạch đền thờ, và với những lời quở trách mạnh mẽ, giống như một người vốn quen thuộc với những lời tiên tri trong Cựu ước về sự xuất hiện của Đấng Mêsi đã được trông đợi. Sự xuất hiện lần đầu tiên của Chúa Jêsus tại đền thờ, đã diễn ra ngay lúc dâng con trẻ là một sự cố rất quan trọng.
(2) Những lời lẽ của Simêôn và Anne đã hoàn toàn làm mờ nhạt nghi thức dâng con trẻ của Đấng Christ. Cơ hội cho sự xuất hiện của Chúa chúng ta tại đền thờ là lễ dâng con trẻ, nhưng chẳng có nói gì về nghi thức nầy hết. Chúng ta chẳng có một tường trình nào ở đây về nghi thức, chúng ta cũng không được cung ứng cho tên tuổi của vị tiên tri nào dính dáng với nghi thức cả. Chúng ta chỉ được kể lại về Simêôn và Anne, cùng những lời công bố của họ. Ấy không phải nghi thức, lễ dâng con trẻ của Chúa Jêsus là quan trọng đâu, mà những lời công bố của hai vị thánh đồ nầy mới là quan trọng nhất.
(3) Trong khi dự tính chủ yếu của Giôsép và Mary là chu toàn những đòi hỏi của luật pháp liên quan tới sự ra đời của Chúa Jêsus mà thôi (đối chiếu Luca 2.39), mục đích của phân đoạn là đưa ra hai lời công bố được sự cảm thúc thiêng liêng về lai lịch của con trẻ nầy là Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời. Điều cốt yếu trong những hành động của Simêôn và Anne là nhìn nhận con trẻ là Đấng Mêsi, là Đấng Chịu Xức Dầu của Đức Chúa Trời, là Sự Cứu Rỗi của Đức Chúa Trời. Về mặt chức năng, những lời lẽ của Simêôn và Anne đã thông báo cho những người Do thái tin kính, những ai đang trông đợi Đấng Mêsi đến, là Ngài đã đến.
(4) Simêôn và Anne nổi bật lên vì đời sống tin kính của họ, và được mô tả là hàng môn đồ gương mẫu, là hạng người mà chúng ta phải bắt chước. Nói theo con người, Simêôn và Anne đã có ít người khen ngợi họ. Hiển nhiên là họ không phải là hạng người có địa vị và quyền thế. Họ không phải là “hạng người xuất sắc” trong thời đó. Theo ý kiến riêng của tôi là đối với nhiều viên chức trong đền thờ, Simêôn và Anne đều bị coi là lập dị, sự tin kính của họ chỉ là hư không mà thôi. Rốt lại, hạng người nầy không làm một điều chi có ích lợi cả, đặc biệt là Anne, bà đã có mặt ở đó mỗi ngày, nhưng chỉ trong giờ cầu nguyện mà thôi.
Tôi có khuynh hướng suy nghĩ rằng các viên chức tôn giáo đã nhìn vào hạng người như Anne với cái nhìn khinh thường. Bà luôn luôn có mặt ở đó, luôn luôn ở ngay bệ thờ. Và loại người siêu thuộc linh của bà có lẽ bị coi là đang tạo ra một môi trường thuộc linh. Sau hết, nếu bà than khóc và xưng ra mọi tội lỗi của Ysơraên, thì bà đang tát ngược sự xét đoán về phía các nhà lãnh đạo tôn giáo. Khi Anne là một goá phụ, và Chúa xét đoán các nhà lãnh đạo tôn giáo trong việc lấn lướt hạng người goá bụa (thí dụ như “nuốt nhà đờn bà goá”, Mathiơ 23.14), có thể Anne đã từng là nạn nhân của các nhà lãnh đạo tôn giáo mà bà đã từng giáp mặt hàng ngày.
Ứng dụng cho Cơ đốc nhân đương thời
Có nhiều cách trong đó bài học nầy và đặc biệt đời sống của Simêôn và Anne được đem ứng dụng cho đời sống Cơ đốc đương thời. Thứ nhất là một sự nhắc nhớ điều chi mới thực là vấn đề trong cuộc sống. Đối với Simêôn, công việc của ông không phải là điều quan trọng nhất, vì chúng ta không được thuật cho biết công việc trong đời sống của ông là công việc gì. Thậm chí không phải là “sự phục vụ Cơ đốc trọn thời gian”, mà một số người gọi đấy là công việc trong cuộc sống. Điều chi đã biệt riêng Simêôn ra đối với nhiều người khác, kể cả các nhà lãnh đạo tôn giáo tại đền thờ (không một ai trong số họ được nêu đích danh trong câu chuyện nầy), cho thấy ông là một nhân vật biết tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ông vâng theo Lời của Ngài, ông trông đợi Nước của Ngài, và Đức Thánh Linh đã chiếm ngự và dẫn dắt ông. Cái điều thực sự là vấn đề trong đời sống của Anne không phải là hôn nhân hay gia đình, mà là sự trung tín với Đức Chúa Trời. Những sinh hoạt dường như không thấy kết quả gì hết như kiêng ăn và cầu nguyện, hiện vẫn còn là việc rất quan trọng. Hội thánh đầu tiên rất tận tình đối với các sinh hoạt như thế (đối chiếu Công vụ các sứ đồ 2-4). Các vị sứ đồ đã lập sự cầu nguyện và rao giảng Lời của Đức Chúa Trời là ưu tiên một trong chức vụ của họ (đối chiếu Công vụ các sứ đồ 6.1-6).
Sự đến của Nước Đức Chúa Trời là một niềm hy vọng to lớn, một động lực lớn lao, một công tác quan trọng của hai vị thánh đồ nầy, và sự đến ấy cũng thuộc về chúng ta nữa. Chúa chúng ta đã dạy chúng ta rằng chúng ta nên cầu nguyện:
“Nước Cha được đến; Ý Cha được nên, ở đất như trời!” (Mathiơ 6.10).
Phierơ cũng viết như sau:
“Vì mọi vật đó phải tiêu tán thì anh em đáng nên thánh và tin kính trong mọi sự ăn ở của mình là dường nào, trong khi chờ đợi trông mong cho ngày Đức Chúa Trời mau đến, là ngày các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán, các thể chất sẽ bị thiêu mà tan chảy đi!” (II Phierơ 3.11-12).
Và Giăng đã thêm vào:
“Hỡi kẻ rất yêu dấu, chính lúc bây giờ chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, còn về sự chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy. Ai có sự trông cậy đó trong lòng, thì tự mình làm nên thanh sạch, cũng như Ngài là thanh sạch” (I Giăng 3.2-3).
Quyển sách cuối cùng trong Kinh Thánh là một bản tường trình ghi lại các biến cố sẽ xảy ra trong những ngày sau rốt, trong thời điểm đó Chúa sẽ hiện đến và thiết lập Nước đời đời của Ngài. Sự đến của Ngài đáng phải là vấn đề bận tâm trong đời sống của chúng ta. Anne nắm giữ các tiêu chuẩn rất cao của Đức Chúa Trời cho những người sống độc thân, cũng như nắm giữ được đặc ân và sự kêu gọi cao trọng cho đời sống độc thân. Chúng ta mau bước qua lời khích lệ của Phaolô trong I Côrinhtô 7 để xét qua đời sống độc thân, nhưng Anne là một bằng chứng sống cho sự đóng góp lớn lao mà con người có thể thực hiện, họ biết dâng đời sống mình cho Đức Chúa Trời. Không có gì phải ngạc nhiên, Phaolô có thể giáo huấn các Hội thánh phải ủng hộ tài chính cho giới phụ nữ đó (đối chiếu I Timôthê 5.3-10).
Nói như vậy không phải ai cũng bắt chước theo Anne đâu, vì như chúng ta biết Simêôn là một người đã lập gia đình, có lẽ là một người đã có vợ, ông cũng có một công ăn việc làm theo đời thường và vì thế có quan hệ nhiều với thế giới đời thường. Tuy nhiên, ưu điểm cao nhất của ông là kính mến và hầu việc Đức Chúa Trời, và với sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, ông đã có mặt ở đền thờ, ở đấy ông được ơn công nhận và xưng Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời.
Phân đoạn nầy tỏ ra chất lượng hảo hạng của đời sống Cơ đốc nhân, là người biết chắc mình sẽ chết, và đức tin của người đặt nơi Đức Chúa Trời là Đấng sẽ làm cho kẻ chết sống lại. Simêôn đã sẵn sàng, có lẽ rất nhiệt thành để qua đời, vì bấy giờ ông đã nhìn thấy Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời, ông đã sẵn sàng rời bỏ sự sống đời nầy lại sau lưng, với sự nhận biết mọi lời hứa của Đức Chúa Trời đều dành cho người sống và kẻ chết. Thật đáng buồn dường bao khi tuần lễ nầy nghe được những báo cáo mới của nhà truyền đạo nổi tiếng, ông nói rằng Đức Chúa Trời sẽ cất đi mạng sống ông nếu ông đem dâng 8 triệu đôla vào tháng ba nầy. Tại sao cứ nổ lực để sống còn quá điên rồ như vậy nếu đức tin của một người đem đặt nơi Đức Chúa Trời. Simêôn đã sẵn sàng chịu qua đời vì ông đã nhìn thấy Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời; chúng ta phải sẵn sàng đối diện với cái chết vì khi chúng ta dám đối diện như vậy chúng ta sẽ nhìn thấy Ngài. Như chính Phaolô đã viết, ông trích dẫn Cựu ước, sự chết đã mất đi cái nọc của nó rồi (I Côrinhtô 15.55; Ôsê 13.14).
Quý vị sốt sắng muốn nhìn thấy Đấng Christ “mặt đối mặt” ra sao nào? Quý vị đối diện với sự chết không thể tránh được như thế nào? Có phải cuộc sống đang buộc quý vị vào mục đích đầy dẫy nhất không? Đối với Cơ đốc nhân, Đức Chúa Jêsus Christ là tiêu điểm chính trong cuộc sống, là nguyên tắc cai quản và là ưu tiên một trong cuộc sống. Nếu quý vị chưa tin cậy Ngài là Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời, tôi khuyên quý vị nên lưu ý sự làm chứng của Simêôn và Anne, và nên tin cậy Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời, là Đấng đã đến để cứu hết thảy những ai kêu cầu Ngài, và tin cậy Ngài là phương tiện cứu rỗi duy nhất của Đức Chúa Trời, bằng cách gánh lấy hình phạt của quý vị trên thập tự giá ở đồi Gôgôtha, và bằng cách sống lại từ kẻ chết.

BÀI 4: (Luca 2.1-20): "SỰ GIÁNG SINH CỦA ĐẤNG MÊSI"



Phần giới thiệu.
Cấu trúc của phân đoạn Kinh Thánh.
Bối cảnh.
Sự giáng sinh của Chúa Jêsus (2.1-7).
Lời công bố của thiên sứ và sự thăm viếng mấy gã chăn chiên lúc ban đêm (2.8-20).
Phần kết luận
BÀI 4
SỰ GIÁNG SINH CỦA ĐẤNG MÊSI
(Luca 2.1-20)
Phần giới thiệu
Bạn tôi và tôi tuần qua đã nhắc lại một câu chuyện vui có quan hệ tới bài học của chúng ta. Một người khách bàng quang với tánh tò mò đứng quan sát người thợ rèn với một sự thích thú lắm. Người thợ rèn đang dùng búa nện vào chiếc móng ngựa. Ông ta vừa làm xong một chiếc móng và đang làm nguội nó. Không cần phải suy nghĩ, người khách bàng quang kia mới nhặt chiếc móng lên nhìn cho gần hơn, rồi lại mau mau đặt nó xuống. Với một cái nháy mắt, người thợ rèn lên tiếng hỏi: “Nóng không, sếp?” Người kia liền đáp với giọng không vui lắm: “Không, chỉ đủ cho tôi kiểm tra mấy cái móng ngựa không lâu được”.
Một người có thể nói rằng Luca không có đủ thì giờ để ghi lại về sự ra đời của con trẻ, khi xem lại chiều dài của câu chuyện ông kể lại về sự giáng sinh của Chúa Jêsus. Và hãy nhớ rằng câu chuyện Luca kể về sự giáng sinh của Chúa chúng ta là câu chuyện rất cảm động duy nhất đã được ghi lại trong các sách tin lành. Ngay cả Mác và Giăng cũng không chiếu cố nhiều vào sự ra đời hay thời thơ ấu của cả Giăng Báptít và Chúa Jêsus, mà bắt đầu với lời giới thiệu chức vụ công khai của Giăng mà thôi. Mathiơ thuật lại cho chúng ta biết về sự thiên sứ thăm viếng Giôsép, ưu tiên cho sự giáng sinh của Chúa Jêsus, là điều khiến cho ông phải cưới Mary, hơn là nàng phải bị để, như ông đã dự trù. Ông cũng thông tin cho chúng ta biết sự thăm viếng của các thầy bác sĩ, về nổ lực muốn giết con trẻ của Hêrốt, và về sự trốn tránh của gia đình thánh sang Aicập cho tới khi Hêrốt đã qua đời. Tuy nhiên, Mathiơ thuật cho chúng ta biết những gì về sự giáng sinh của Chúa. Chỉ có Luca mô tả các sự cố về sự giáng sinh của Chúa chúng ta mà thôi. Vì thế, khi chúng ta nhắm vào sự ngắn gọn của sách Luca, chúng ta thấy câu chuyện duy nhất nói tới sự giáng sinh của Đấng Christ cũng là một câu chuyện rất vắn tắt. Sự vắn tắt nầy rất có ý nghĩa, khi chúng ta tìm cách làm bật ra cứu cánh của sứ điệp.
Trong hết thảy những việc mà Luca đã thuật lại cho chúng ta biết về sự giáng sinh của Chúa Jêsus, ông đã chọn đưa ra một câu chuyện vắn tắt nói tới các yếu tố hình thành sự giáng sinh của Chúa Jêsus ở Bếtlêhem (chiếu chỉ của Sêsa, cuộc điều tra dân số, nơi sinh của Chúa Jêsus phải là Bếtlêhem), và thể nào mấy gã chăn chiên gần đó đã tới chứng kiến sự Đấng Mêsi hiện đến. Các sự cố nầy do tính chất hấp dẫn của sự thật, dù chúng được tuyển chọn từ nhiều người ghi chép lại nhưng không được viết ra, lại rất quan trọng đối với Cơ đốc nhân, đặc biệt là những tín đồ dân Ngoại, kể cả chúng ta. Chúng ta hãy tìm cách tiếp thu ý nghĩa và phần ứng dụng của sự Chúa giáng sinh, như đã được ghi lại duy nhất bởi Luca, là nhà chép sử đã được Đức Chúa Trời cảm thúc.
Phần cấu trúc của phân đoạn Kinh Thánh
Luca chương 2 có ba phần chính. Câu 1-20 mô tả sự giáng sinh của Chúa Jêsus, sự thờ lạy và chứng kiến của mấy gã chăn chiên. Câu 21-40 mô tả một câu chuyện giới thiệu Chúa Jêsus tại thành Giêrusalem, và phần làm chứng cảm động của Simêôn và Anne. Phần thứ ba và là phần sau cùng của chương mô tả một sự kiện đã diễn ra tại thành Giêrusalem khi Chúa Jêsus được 12 tuổi, ngay thời điểm Ngài còn ở lại tại đền thờ, là “nhà của Cha” Ngài, bận rộn với công việc của Cha Ngài (Luca 2.41-52).
Bài học của chúng ta, Luca 2 câu 1-20 cũng có ba phần. Câu 1-7 giải thích cơ hội để Chúa Jêsus ra đời tại thành Bếtlêhem, và đặc biệt cho các hoàn cảnh kèm theo sự giáng sinh của Ngài, Ngài được quấn bằng khăn và được đặt trong cái máng ăn của gia súc. Câu 8-14 mô tả sự thiên sứ thăm viếng mấy gã chăn chiên ngay bối cảnh giáng sinh. Câu 15-20 ghi lại sự thăm viếng của mấy gã chăn chiên và sự làm chứng của họ sau khi gặp được Cứu Chúa.
Bối cảnh
Sau lời giới thiệu của tin lành Luca (1.1-4), Luca bắt đầu đan dệt sự đến của Giăng Báptít và Chúa Jêsus, bắt đầu với lời công bố sự ra đời của họ, và sau cùng một số trường hợp quan trọng về thời thơ ấu. Sự ra đời của Giăng và “mối hận gia đình” về sự đặt tên cho đứa trẻ là đề tài cho phần nghiên cứu sau cùng của chúng ta.
Có một số sự cố xen giữa mà Mathiơ đã ghi lại cũng giúp cho chúng ta hiểu được những gì đã diễn ra trong bài học của chúng ta. Câu chuyện của Mathiơ ghi lại về sự thiên sứ thăm viếng Giôsép dường như xảy ra rất ngắn ngủi sau khi Mary trở về nhà mình ở Naxarét từ nhà của Êlisabét và Xachari (đối chiếu Luca 1.39-56). Theo ý kiến của tôi thì Mary đã mang thai do tác động kỳ diệu của Đức Thánh Linh trong khi nàng ở lại với Êlisabét cùng chồng của bà, là Xachari. Trên đường về nhà nàng đã chịu thai gần ba tháng. Nhận thấy ba tháng mang thai của nàng là một cú sốc và thất vọng lớn lao cho Giôsép. Không một chuyên gia nào về môn sinh vật chịu công nhận rằng phụ nữ tự người đó có thai bao giờ, và thế là Giôsép buộc phải kết luận rằng nàng đã có một sự quan hệ tình dục với một người đờn ông khác. Ly dị là điều không thể tránh được, Giôsép biết rõ thế, nhưng ít nhất ông lại muốn quyết định như thế theo cách riêng mình, chớ không muốn tỏ ra công khai với Mary.
Ngay tại thời điểm nầy khi thiên sứ đến viếng Giôsép trong một giấc chiêm bao, Mathiơ thuật cho chúng ta biết (Mathiơ 1.18-25), thiên sứ cho Giôsép biết Mary không có một sự ăn ở nào trái phép, mà con trẻ nàng đang mang trong bụng chính là Đức Chúa Trời hoá thân thành xác thịt, là Emmanuên. Như là kết quả của sự khải thị nầy, Giôsép đã đem Mary về làm vợ mình, tiếp trợ và bảo hộ nàng, rồi sau đó đóng vai trò là cha của đứa trẻ lạ lùng mà nàng đã cưu mang.
Mary trở thành vợ của Giôsép trong một đường lối khá đặc biệt, để thích ứng với tình trạng chịu thai của nàng. Theo thói thường thì một người nam và một người nữ Do thái trở thành chồng vợ bởi sự kết hiệp theo phần xác. Là một phần của nghi thức cưới xin người chồng và vợ phải bước vào túp lều của họ, và chỉ xuất hiện lại sau khi cặp hôn nhân đã ân ái mặn nồng với nhau. Mary đã không có một nghi thức cưới hỏi như thế, vì Mathiơ có cho chúng ta biết rằng họ chẳng có một quan hệ tình dục nào cho tới sau sự giáng sinh của Chúa Jêsus (Mathiơ 1.25). Vì thế, khi Mathiơ đề cập tới việc Mary và Giôsép ăn ở với nhau, ông đang nói về mặt chức năng, vì từ thời điểm nầy trở đi họ đã sống chung với nhau như vợ chồng. Nhưng khi Luca nói tới cặp vợ chồng nầy, trên đường đi tới Bếtlêhem, ông đang nói tới họ như thể họ vẫn còn hứa hôn, và chưa cưới xin gì cả. Hãy để vấn đề nầy lại cho vị bác sĩ cứu xét về mặt chuyên môn. Dù vậy, ông đã đúng về mặt chuyên môn, vì chỉ sau khi sanh Chúa Jêsus thì Mary và Giôsép mới ăn ở với nhau đúng theo ý nghĩa vợ chồng.
Sự giáng sinh của Chúa Jêsus tại Bếtlêhem (2.1-7).
Luca dựng lên câu chuyện nói tới sự giáng sinh của Chúa Jêsus với một tường trình về các điều kiện trong đó Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời sẽ ra đời, và những lý do của loài người dành cho họ. Bảy câu đầu tiên nầy về bề ngoài rất là “đời thường”. Chẳng thấy nói gì tới bàn tay của Đức Chúa Trời, cũng không thấy nói gì tới một sinh hoạt “thuộc linh” nào đặc biệt cả. Thực vậy, phân đoạn kết thúc hầu như với một lưu ý về bi kịch của con người. Hãy suy nghĩ về phần kết ấy, Con Đức Chúa Trời, được bọc bằng mấy tấm tả rách, và được đặt nằm trong một cái máng ăn của gia súc! Chúng ta có thể phản kháng, chẳng thích đáng gì hết, thê thảm làm sao! Có thể thê thảm lắm, trừ ra “mặt kia của những tin tức”, được thấy rõ trong các câu 8-20. Mọi cảnh ngộ dường như quá thê thảm, quá buồn rầu, song chúng lại minh chứng rất quan trọng. Trước tiên chúng ta hãy xét qua mặt đời thường của các tin tức, rồi hãy nhắm thẳng vào chiều kích của mặt thuộc linh.
Các câu 1-3 cung ứng một sự giải thích theo đời thường về hoàn cảnh khó khăn thật thảm hại của con trẻ Christ. Sêsa đã đưa ra một chiếu chỉ, đòi hỏi một cuộc điều tra dân số, không nghi ngờ chi nữa vì Sêsa chuẩn bị cho một kỳ thu thuế sau đó. Muốn đăng ký trong cuộc điều tra dân số nầy người dân phải chịu cực khổ lắm, không những vì đi đăng ký là một sự bất tiện, mà đó còn là một sự nhắc nhớ rằng dân sự của Đức Chúa Trời là dân Ysơraên, dù sinh sống trong đất Hứa, họ không sinh sống trong sự tự do; họ phải chịu dưới sự cai trị của một thế lực ngoại giáo. Một điều luật của người La mã, do kẻ cai trị theo ngoại giáo lập ra, buộc dân Ysơraên phải làm theo. Người Do thái khẳng định rằng họ không thần phục một ai hết (Giăng 8.33), sự khẳng định nầy cho thấy họ từ chối hiển nhiên trước một sự kiện quá đau lòng như thế.
Thành thật mà nói, phần thông tin trong các câu 1-3 chẳng có thú vị nhiều đối với độc giả Cơ đốc đương thời. Có ai quan tâm đến việc Sêsa chịu trách nhiệm về việc kê sổ dân, dù là một người thôi? Có ai quan tâm đến Qui-ri-ni-u không? Theo ý kiến của tôi, Thêôphilơ mới là người đáng quan tâm đấy. Từ ngữ “quý nhơn” mà Luca sử dụng trong chương 1 (câu 3), cũng được Luca sử dụng ba lần trong sách Công vụ các sứ đồ (23.26; 24.3; 26.25), mỗi lần đều có đề cập tới một quan chức có địa vị cao về mặt chính trị. Điều này cho thấy rằng Thêôphilơ cũng là một người có địa vị cao về mặt chính trị. Thông tin của Luca, trong khi chẳng có thú vị gì nhiều đối với chúng ta, thì phải có ý nghĩa đối với Thêôphilơ. Ở giữa mọi việc nầy, Luca đang tỏ ra gốc rễ về mặt lịch sử của đức tin Cơ đốc. Không giống như sự xuất hiện của các “thần” khác thuộc những tôn giáo kia, sự xuất hiện của họ tiềm ẩn trong loại từ ngữ “ngày xửa ngày xưa”, còn sự đến của Đấng Christ là một biến cố có thật vào một thời điểm thật. Những sự kiện do Luca cung cấp đều rất quan trọng cho một người, đức tin của người ấy rất có giá trị về mặt lịch sử.
Trong phần phân tích sau cùng, chiếu chỉ của Sêsa có dụng ý về mặt thiêng liêng khiến cho một đôi vợ chồng phải thực hiện chuyến hành rình đầy khó khăn từ thị trấn quê hương của họ là Naxarét ở Galilê đến nơi chôn nhau cắt rốn của họ, thành Bếtlêhem nằm trong xứ Giuđa. Vị tiên tri thời xưa đã nói tiên tri rằng Đấng Mêsi đã sanh ra tại thành Bếtlêhem, một sự kiện mà người Do thái ai cũng biết rõ:
“Vua bèn nhóm các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo trong dân lại mà tra hỏi rằng Đấng Christ phải sanh tại đâu. Tâu rằng: Tại Bếtlêhem, xứ Giuđê; vì có lời của đấng tiên tri chép như vầy: HỠI BẾTLÊHEM, ĐẤT GIUĐA! THẬT NGƯƠI CHẲNG KÉM GÌ CÁC THÀNH LỚN CỦA XỨ GIUĐA ĐÂU, VÌ TỪ NGƯƠI SẼ RA MỘT TƯỚNG, LÀ ĐẤNG CHĂN DÂN YSƠRAÊN, TỨC DÂN TA” (Mathiơ 2.4-6, trích dẫn Michê 5.1).
Tuy nhiên, mục đích của Luca không phải nhấn mạnh ở chỗ ứng nghiệm lời tiên tri trong Cựu ước, như Mathiơ muốn đâu, vì tin lành của ông được viết ra cho dân Ngoại, có lẽ họ không quen thuộc với những lời tiên tri của Cựu ước. Mục đích của Luca là bày tỏ ra những hoàn cảnh khiêm hạ của sự Đấng Mêsi ra đời. Vì thế, Luca thông báo cho chúng ta biết Giôsép và Mary đã thực hiện chuyến đi đến thành Bếtlêhem, phải mất ít nhất ba ngày đường khoảng hơn 60 dặm. Thành Naxarét nằm trong xứ Galilê, ở phía Bắc xứ Giuđê. Như Luca cho chúng ta biết, chuyến đi đến Bếtlêhem là chuyến “đi lên” (“Vì Giôsép… cũng từ… xứ Galilê… lên thành Đavít” 2.4), vì Bếtlêhem nằm trong vùng đồi núi, chừng 6 dặm phía nam thành Giêrusalem, 100 feet cao, 2704 feet so với mặt nước biển trung bình. Chuyến đi nầy không phải là chuyến đi dễ dàng, đặc biệt đối với một phụ nữ đang có mang, cũng không phải là một dịp để vui mừng, vì điều tra dân số không nghi ngờ chi nữa chính là phần đầu của kỳ thu thuế, cho nên Mary và chồng mình sẽ phải lánh xa khỏi bạn bè thân thuộc, trong trường hợp đứa trẻ phải ra đời khi họ đến thành Bếtlêhem.
Nhiều hình ảnh đã trở thành một phần của Lễ Giáng Sinh và truyền khẩu về Chúa giáng sinh đã được cung ứng bởi “sự lấp đầy các khoảng trống” trong câu chuyện của Luca. Những gì chúng ta biết: ấy là không còn một phòng trống nào trong “nhà quán” cả, rồi kết quả là con trẻ Jêsus được bọc bằng khăn, được đặt nằm trong cái máng ăn của gia súc. Chúng ta không biết Chúa Jêsus đã ra đời trong một chuồng chiên hay trong một hang đá. Có thể cái máng ăn gia súc đã được mượn của nhà quán, để đứa trẻ có thể ra đời dưới bầu trời đầy sao. Mary lại ưa thích sự kín đáo. Chiếc máng đã cung ứng được một chỗ mềm mại cho đứa trẻ nằm ngủ và cái khăn được quấn quanh đứa trẻ, sẽ giữ ấm cho, đặc biệt nếu gia đình thánh phải “đóng trại” ở chỗ rộng rãi đó.
Lời công bố của thiên sứ và sự thăm viếng mấy gã chăn chiên lúc ban đêm (2.8-20).
Luca đã thông báo cho chúng ta biết khá nhiều việc, thật khó nhìn thấy được bàn tay của Đức Chúa Trời trong các biến cố nầy. Mary và Giôsép xuất hiện chỉ như một cặp vợ chồng không may buộc phải thực hiện một chuyến hành trình mà họ chẳng mong muốn đến Bếtlêhem, rồi ở đó, thật tệ hại, Mary đã sanh con, trong hoàn cảnh đáng thương nhất trong mọi hoàn cảnh. Phần kết luận của chúng ta, nếu sự thể xảy ra ở đây thì: “Đáng buồn lắm! Đáng thương lắm. Tệ hại quá Đấng Mêsi của Ysơraên, Vua của dân Dothái”.
Hai câu nói chủ yếu thiên về mô tả của Luca trong câu 7 giờ đây bị chất vấn, và ý nghĩa thuộc linh của chúng được tỏ ra qua mấy câu theo sau. Mary và Giôsép vừa “hạnh phúc” được ở gần một cánh đồng có mấy gã chăn chiên đang chăn bầy của họ ở đó. Có người cho rằng các bầy chiên nầy là các thú vật được nuôi để làm con sinh ở thành Giêrusalem. Mấy gã chăn chiên nầy cũng bị người đồng hương của mình xem thường. Những người làm nghề chăn chiên, như quý vị sẽ nhớ lại, bị “gớm” đối với người Aicập (Sáng thế ký 43.32; 46.34); họ cũng bị anh em của họ coi là thấp kém. Geldenhuys nhắc cho chúng ta nhớ rằng:
“Người hành nghề chăn chiên là hạng người bị xem khinh. Họ bị nghi là không phân biệt nổi cái nào là ‘của tôi’, cái nào là ‘của anh’; vì lý do nầy, họ cũng bị tước đi quyền làm chứng tại toà án”.
Mặc dù họ mang tiếng là hạng người thấp kém, mấy gã chăn chiên nầy dường như là những con người tin kính, là hạng người trông mong sự đến của Đấng Mêsi của Ysơraên. Hết thảy những người khác trong số những người được trực tiếp thông báo về sự giáng sinh của Đấng Mêsi trong sách Mathiơ và Luca đều được mô tả là hạng người tin kính, và điều nầy cũng là thật đối với mấy gã chăn chiên. Sau hết, các tin tức nói về sự đến của Ngài sẽ không là “sự vui mừng lớn” (câu 10) nếu họ không tìm kiếm Ngài. Sự vội vàng của mấy gã chăn chiên đến tận nơi Đấng Christ chào đời (các câu 15-16) cũng biểu lộ được thái độ sửa soạn sẵn và sốt sắng về mặt thuộc linh đối với sự đến của Đấng Mêsi. Thái độ nầy như ngược lại với phần đáp ứng của người thành Giêrusalem trước các tin tức nói về sự ra đời của Đấng Mêsi, như đã được nói tiên tri trong Kinh Thánh của họ và do mấy thầy bác sĩ công bố:
“Khi Đức Chúa Jêsus đã sanh tại thành Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, đang đời vua Hê-rốt, có mấy thầy bác sĩ ở đông phương đến thành Giê-ru-sa-lem, mà hỏi rằng: Vua dân Giu-đa mới sanh tại đâu? Vì chúng ta đã thấy ngôi sao Ngài bên đông phương, nên đến đặng thờ lạy Ngài. Nghe tin ấy, vua Hê-rốt cùng cả thành Giê-ru-sa-lem đều bối rối” (Mathiơ 2.1-3).
Thiên sứ của Đức Chúa Trời đã hiện ra cùng mấy gã chăn chiên khiêm nhuờng nầy trong một sự vinh hiển chói loà, khiến cho họ rất đỗi sợ hãi. Thiên sứ quyết chắc với họ rằng Ngài đem đến cho họ những tin tức tốt lành, rồi nói cho họ biết về sự giáng sinh của Đấng Mêsi. Đây là nguyên nhân của sự “vui mừng lớn” cho mọi người. Tôi đưa điều nầy ra để thấy rằng thiên sứ muốn nói là mọi người, mọi nước, chớ không riêng gì dân Ysơraên sẽ được phước do sự Ngài giáng sinh. Bỗng chốc có muôn vàn thiên binh thiên sứ, một đạo quân thiên sứ, hát lên một bài hát ca ngợi sự bình an. Đây là sự khẳng định thiêng liêng trong lời công bố của thiên sứ.
Thiên sứ đã hứa một dấu hiệu cho mấy gã chăn chiên. Dấu hiệu là đây: họ sẽ nhìn thấy con trẻ quấn bằng khăn, đặt nằm trong máng cỏ (câu 12). Dấu ấy không có ý thuyết phục mấy gã chăn chiên về sự thật trong lời công bố của thiên sứ. Chắc chắn sự chói lọi của thiên sứ, hiệp với thiên binh thiên sứ ở trên trời, là đủ để thuyết phục rồi. Tôi tin “dấu lạ” nầy chỉ để cho mục đích xác định lai lịch. Từ câu chuyện của Mathiơ nói về việc tàn sát ở thành Bếtlêhem (Mathiơ 2.16-18), rõ ràng là đã có một số con trẻ ở thành Bếtlêhem lúc bấy giờ. Cách mà họ sẽ nhận ra Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời là bởi Ngài được quấn bằng khăn và bởi cái “máng” bất thường của Ngài. Không một đứa trẻ nào được tìm thấy trong một bối cảnh như thế.
Vậy nên hai yếu tố cảm động trong sự giáng sinh của Chúa chúng ta, là “quấn khăn”“máng cỏ”, chứng minh đúng là những việc biệt đứa trẻ nầy ra khác với những đứa trẻ khác, và mấy gã chăn chiên nhơn đó dễ nhận dạng được Ngài. Một trong những danh xưng của Đấng Mêsi là “Emmanuên”, nghĩa là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta”. Bối cảnh Chúa chúng ta giáng sinh giúp cho mấy gã chăn chiên mau nhận ra Ngài. Dường như trên chỗ Ngài nằm chẳng có mái che, không có cửa nẻo gì hết. Mấy gã chăn chiên cũng vậy, chúng ta được thuật lại cho biết, họ đã ngủ dưới bầu trời đầy sao, khi họ trông coi bầy chiên của mình (câu 8). Chúa Jêsus vốn nghèo nàn và chẳng có danh tiếng chi hết, cũng như họ vậy. Và Chúa Jêsus, Ngài vừa là “Chiên Con của Đức Chúa Trời” (đối chiếu Êsai 53.4-6; Giăng 1.29) và là “Đấng Chăn Nhơn Lành” (đối chiếu Thi thiên 23.1 Êxêchiên 34.23; Giăng 10.14), đồng nhất với mấy gã chăn chiên nầy khi họ tìm thấy Ngài đang nằm trong chiếc máng cỏ. Liệu họ có thể bị coi là ô uế do sự họ va chạm với loài vật không? Cũng một thể ấy đối với Ngài!?! Quả là một hình ảnh đẹp đẽ về sự khiêm nhường và đồng hoá của Chúa với loài người, thậm chí là người khiêm nhường nhất trong vòng những người khiêm nhường, trong vòng những người bị khinh dễ và chối bỏ.
Với lòng sốt sắng và mau mắn nhất (các câu 15-16) mấy gã chăn chiên liền vào thành Bếtlêhem, ở đây họ “thấy Mary, Giôsép, và thấy con trẻ đang nằm trong máng cỏ”. Tôi nghĩ thật là quan trọng khi công nhận lời thiên sứ công bố sự giáng sinh và địa điểm của Đấng Mêsi, không những mấy gã chăn chiên đã chứng kiến trường hợp lịch sử, và thờ lạy Vua của họ, mà còn có thể thuật lại cho người khác biết – trở thành những chứng nhân – về sự giáng sinh của Đấng Mêsi.
Trước hết hãy suy nghĩ về sự mấy gã chăn chiên đến và lời tuyên bố của họ tác động trên Mary và Giôsép. Họ đã thuật lại con trẻ đã được cưu mang thật lạ lùng trong lòng của Mary, chính là Đấng Mêsi, là Cứu Chúa được hứa cho. Nhưng cần phải có nhiều năm tháng mới hiểu được sự kiện nầy, cũng như cần có nhiều thời gian cho các môn đồ hiểu được. Chúa Jêsus là ai? Họ tiếp tục ngạc nhiên và lấy làm lạ nơi những điều Chúa Jêsus đã nói và làm, nhưng không kết được mọi sự lại với nhau cho tới sau sự chết, sự chôn, sự sống lại của Ngài và sự giáng lâm của Đức Thánh Linh như đã được hứa cho (đối chiếu Giăng 16.12…). Vì vậy Mary và Giôsép cũng rất đỗi ngạc nhiên qua sự đến của mấy gã chăn chiên và bởi sự họ đã chia sẻ lại về lời công bố và ca hát của thiên sứ. Trong khi ai nấy nghe được sự nầy đều lấy làm lạ, còn Mary, theo một cách thức nào đó, “ghi nhớ mọi lời ấy và suy nghĩ trong lòng”. Trong các giới hạn của máy vi tính, dữ liệu thông tin của nàng cứ tiếp tục tăng lên và nàng rất bền đỗ hướng về các dữ liệu nầy, tìm hiểu ý nghĩa và mọi hàm ý của chúng. Về mặt cá nhân tôi thấy rằng chính sự đến của mấy gã chăn chiên sau cùng đã mang mọi hoàn cảnh bất tiện và khốn khó của sự Chúa Jêsus giáng sinh vào trong ánh sáng thuộc linh chân thật của nó. Mọi điều đã hiện hữu chỉ là một chuỗi các biến cố không may, giờ đây được tỏ ra là bàn tay của Đức Chúa Trời đang hành động qua lịch sử để hoàn thành ý chỉ của Đức Chúa Trời.
Sự làm chứng của mấy gã chăn chiên cũng có một tác động lớn trên dân sự trong khu vực đó, họ là những người đang trông mong Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời đến. Luca cho chúng ta biết mấy gã chăn chiên “vội vàng đi đến đó” với Mary, Giôsép và con trẻ, nhưng làm sao điều nầy xảy ra được? Chúng ta không biết chính xác, nhưng ít nhất tôi có thể tưởng tượng làm thể nào sự việc xảy ra theo một cách khiến cho ai nấy đều nhận biết sự Đấng Mêsi hiện đến!?!
Đối với tôi, sự tìm kiếm con trẻ Mêsi tại thành Bếtlêhem của mấy gã chăn chiên cũng giống như một cuộc săn lùng vậy. Những “đầu mối” họ có thể phăng ra là: (1) có một đứa trẻ mới sanh; (2) đứa trẻ ấy là một con trai; và (3) đứa trẻ ấy đang nằm trong máng cỏ, quấn bằng khăn. Tôi có thể hình dung mấy gã chăn chiên nầy, tụ tập lại trên thị trấn Bếtlêhem, lúc nửa đêm (các câu 8, 15-16), họ gõ nhiều cửa nhà, tìm cách gặp cho kỳ được đứa trẻ nào thoả mãn những điều họ mô tả. Nếu có ai quan sát thị trấn từ một khoảng xa xa có thể nhìn thấy được toàn thị trấn hết nhà nầy đến nhà khác đang đốt đèn sáng lên, họ bị khuấy động bởi các tin tức mà mấy gã chăn chiên đem đến. Từ mỗi nhà mà họ không tìm gặp con trẻ, có lẽ đã có thêm các nhóm khác đang truy tìm đứa trẻ. Có lẽ cả thị trấn đã bị đánh thức và dính dáng vào cuộc truy tìm trước khi đứa trẻ được tìm thấy. Mọi sự nầy góp phần làm cho tin tức nói tới sự giáng sinh của con trẻ Christ cho mọi người đều biết, cũng như đã tạo ra được một bầu không khí tò mò và trông ngóng. Ít nhất, ở mỗi căn nhà, đều có lời yêu cầu họ quay trở lại cho biết khi có tin tức về nơi Đấng Mêsi được tìm thấy.
Sau khi mấy gã chăn chiên tìm gặp con trẻ rồi chia sẻ với Mary và Giôsép những gì đã xảy ra, có lẽ họ đã trở lại thị trấn Bếtlêhem, đem những gì họ đã nhìn thấy ở đó nói cho dân chúng biết. Vì lẽ đó Luca thuật lại cho chúng ta biết: “Ai nấy nghe chuyện bọn chăn chiên nói, đều lấy làm lạ” (câu 18). Mấy gã chăn chiên nầy, họ thuộc về một giai cấp trong xã hội bị cấm không cho làm chứng ở trước toà án, lại là những người Đức Chúa Trời chọn làm chứng cho sự giáng sinh của Con Ngài. Tại sao vậy? Vì, tôi nghĩ, Đức Chúa Trời luôn luôn chọn những việc “yếu đuối và dại dột” thuộc đời nầy để làm cho người khôn ngoan phải bẽ mặt, và vì sứ giả không phải là vấn đề, mà sứ điệp mới là vấn dề. Nếu Chúa Jêsus đến để đem sự cứu rỗi và sự giải phóng cho kẻ nghèo, kẻ bị áp bức trong đời nầy, tại sao không dùng những kẻ bị khinh dễ và bị chối bỏ loan báo sứ điệp đó? Các vị sứ đồ của Chúa chúng ta cũng đúng là hạng người thể ấy thôi (đối chiếu Công vụ các sứ đồ 4.13).
Phần kết luận.
Có bốn bài học mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây, tôi tin là đã tiếp thu được trong bài học nầy. Chúng ta hãy xem xét với sự khẩn nguyện Đức Chúa Trời đã phán dạy chúng ta điều chi từ phân đoạn nầy:
(1) Uy quyền của Đức Chúa Trời trong lịch sử. Luca là một sử gia, và câu chuyện lịch sử của ông nói về sự giáng sinh của Đấng Christ chắc chắn đang tìm cách bày tỏ ra uy quyền của Đức Chúa Trời trong lịch sử. Trong 7 câu đầu của phân đoạn, mọi sự đều được xem xét qua mạng lưới “đời nầy”. Vị vua ngoại đạo đưa ra một chiếu chỉ, và dân Ysơraên tuân theo chiếu chỉ ấy bằng cách tìm về đăng ký nơi sanh quán của họ. Trong quá trình đó, một phụ nữ có thai buộc phải thực hiện một hành trình dài cùng với chồng, mang một đứa trẻ xa nhà và không có những tiện nghi của một gia đình.
Luca khi ấy mới vén bức màn lên, chỉ cho chúng ta thấy hết thảy các sự cố đáng buồn nầy xảy ra để Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời sanh hạ trong mối quan hệ gần gũi với mấy gã chăn chiên, và biệt Ngài riêng ra đối với những đứa trẻ khác trong thành Bếtlêhem. Mấy gã chăn chiên nầy được dẫn tới gặp Đấng Mêsi bởi một thiên sứ và một ban hát thiên sứ, để họ góp phần gây dựng và khích lệ Mary và Giôsép cùng công bố sự giáng sinh của Đấng Mêsi cho mọi người sinh sống tại khu vực ấy.
Quý vị sẽ thấy chẳng có một điều gì được đưa ra nhắc tới sự ứng nghiệm lời tiên tri ở Michê 5.1 đặc biệt được Luca nhắc tới vì người tiếp nhận câu chuyện, là Thêôphilơ là một người Ngoại, có lẽ ông đang nắm giữ một địa vị chính trị rất cao. Trong khi Thêôphilơ không quan tâm về phương diện ứng nghiệm lời tiên tri nói tới câu chuyện giáng sinh của Luca, ông lại có ấn tượng sâu đậm khi học biết Đức Chúa Trời đang tể trị, Ngài có thể hoàn thành mọi mục đích và làm ứng nghiệm các lời hứa của Ngài bằng các phương tiện thế lực ngoại đạo, thậm chí thế lực chính trị cao cấp nhất trong thời đó - là Sêsa. Thêôphilơ rất có ấn tượng bởi sự thật nầy, là điều Luca đang cẩn thận bày tỏ ra.
(2) Luca cung ứng cho chúng ta một bài học torng sự truyền đạt Tin lành. Luca đang viết ra một câu chuyện nói tới tin lành ở đây, và trong khi viết câu chuyện ấy ông cung ứng cho chúng ta một số bài học trong việc truyền đạt Tin lành cho người khác. Luca bỏ qua cơ hội làm nổi bật sự ứng nghiệm Michê 5.1, vì điều nầy không tác động mạnh vào dân Ngoại như nó tác động vào người Do thái. Luca nhấn mạnh uy quyền của Đức Chúa Trời trên lịch sử và trên một vị vua ngoại đạo, là uy quyền có một tác động mạnh trên Thêôphilơ. Qua những gì Luca viết hay không viết, ông dạy chúng ta rằng chúng ta không dám làm thay đổi tin lành, nhưng chúng ta nên cẩn thận chọn tập trung vào các chi tiết của Tin lành có tác động lớn vào thính giả của chúng ta.
(3) Câu chuyện của Luca nói tới sự giáng sinh của Đấng Christ nhắc cho chúng ta nhớ tới nguyên tắc cân đối. Chúng ta đã chỉ ra rồi một mình Luca ghi lại các chi tiết nói tới sự sự giáng sinh của Chúa chúng ta. Chỉ có một tin lành trong bốn câu chuyện mô tả sư giáng sinh của Đấng Christ, trong khi cả bốn câu chuyện đều mô tả cẩn thận sự chết của Ngài. Để thiên về vấn đề nầy, chỉ có một vài câu mô tả trong các sự cố vây quanh sự giáng sinh của Đấng Christ trong khi vài chương trong mỗi sách tin lành được dành cho phần mô tả sự bị bắt, sự thách thức, sự đóng đinh trên thập tự giá, sự chôn, sự sống lại và sự thăng thiên của Chúa chúng ta. Nguyên tắc cân đối dạy chúng ta rằng nhiều thời gian và khoảng trống được dành cho điều chi là quan trọng nhất, trong khi có ít thời gian và khoảng trống được dành cho những gì kém quan trọng hơn. Trên cơ sở của nguyên tắc đơn sơ nầy chúng ta phải kết luận rằng sự chết của Đấng Christ là quan trọng hơn sự giáng sinh của Ngài đối với các trước giả TIN LÀNH. Tại sao phải như vậy chứ? Vì chính sự chết, sự chôn, và sự sống lại của Đấng Christ mới cứu chúng ta, chớ không phải thời thơ ấu của Đấng Christ. Như vậy, Đấng Christ cần phải khoác lấy xác thịt con người trước khi Ngài bày tỏ Đức Chúa Trời ra cho nhân loại và giải cứu họ, nhưng chính công tác chuộc tội của Ngài trên thâp tự giá ở đồ Gôgôtha mới cứu lấy chúng ta.
Tại sao truyện tích Giáng sinh rất quan trọng đối với nhiều người ngày hôm nay, thậm chí cả những người không tin nơi Đấng Christ để được cứu? Bởi vì, tôi e là, con trẻ nằm trong máng cỏ kia ít đe doạ hơn là Đấng Christ trong các sách tin lành, Ngài giải thích và ứng dụng luật pháp, Ngài xét đoán tội lỗi và Ngài phán về đức tin nơi huyết của Ngài. Con trẻ trong máng cỏ kia rất dễ thương và thích được nâng niu và “dễ điều khiển”. Con trẻ nằm trong máng cỏ là một loại “Đức Chúa Trời ở trong hộp”, một Đức Chúa Trời mà chúng ta thích tới gần, thích nghĩ đến, ngay cả thích thờ lạy nữa. Nhưng Đấng Christ bị treo trên thập tự giá không phải là một hình ảnh đẹp, Ngài không phải là Đấng mà chúng ta muốn tới gần, Ngài gợi lên trong chúng ta những cảm xúc mờ nhạt. Nhiều người đã nhìn xem con trẻ nằm trong máng cỏ rất tầm thường vì đây là loại “thần” mà họ muốn phục sự, một vị “thần” yếu đuối, vô dụng, “thần” ấy cần chúng ta, chớ không phải như Đức Chúa Trời, là Đấng đang tể trị, Ngài đòi hỏi sự vâng phục, sự thờ phượng, mọi sự của chúng ta.
Đâu là loại “Thần” mà quý vị đang phục sự? Đấng Christ có giống với Đấng mà bạn đang thờ lạy không? Thờ lạy con trẻ “đang nằm trong máng cỏ” chưa phải là đủ, vì đây mới chỉ là cách Ngài đến thôi. Ngài đã được Giăng mô tả theo cung cách đời đời trong sách Khải huyền:
“Giăng gởi cho bảy Hội thánh ở xứ A-si: nguyền xin ân điển và sự bình an ban cho anh em từ nơi Đấng Hiện Có, Đã Có Và Còn Đến, cùng từ nơi bảy vị thần ở trước ngôi Ngài, lại từ nơi Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng làm chứng thành tín, sanh đầu nhất từ trong kẻ chết và làm Chúa của các vua trong thế gian! Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài, đáng được sự vinh hiển và quyền năng đời đời vô cùng! A-men. KÌA, NGÀI ĐẾN GIỮA NHỮNG ĐÁM MÂY, MỌI MẮT SẼ TRÔNG THẤY, CẢ ĐẾN NHỮNG KẺ ĐÃ ĐÂM NGÀI CÙNG TRÔNG THẤY; HẾT THẢY CÁC CHI HỌ TRONG THẾ GIAN SẼ THAN KHÓC VÌ CỚ NGÀI. QUẢ THẬT VẬY. A-MEN!” (Khải huyền 1.4-7).
Theo sách Khải huyền và các lời tiên tri trong Kinh Thánh, Chúa Jêsus là Đấng đã đến lần đầu tiên là một con trẻ, Ngài sẽ còn đến nữa, là Đấng báo thù và là một quan án công bình, hình phạt kẻ ác và ban thưởng cho người công bình. Đây không phải là loại Jêsus mà quý vị muốn nghĩ tới hay phục sự, nhưng Jêsus đó đã đến với Bếtlêhem. Sự đến lần thứ hai của Ngài sẽ rất khác với sự xuất hiện lần đầu tiên của Ngài. Ngài đã đến với sự tự hạ mình, chịu chết trên thập tự giá, và để cứu rỗi. Lần tới, Ngài đến để xét đoán. Có phải quý vị đang sẵn sàng đối diện với Jêsus nầy, phủ phục trước mặt Ngài trong sự thờ phượng chăng? Đây là Jêsus nằm trong máng cỏ. Đây là Vua hầu đến. Tôi khuyên quý vị hãy tiếp nhận Đấng Christ khi Ngài đến lần đầu tiên, làm Cứu Chúa của quý vị, và rồi sốt sắng chờ đợi Ngài, khi Ngài đến lần thứ hai, để làm cho mọi việc ra ngay thẳng, để thiết lập Nước Ngài ở trên đất, và để cai trị mọi loài thọ tạo. Chúng ta hãy tiếp thu từ câu chuyện của Luca rằng con trẻ trong máng cỏ chính là Cứu Chúa của thế gian, là Đấng mà chúng ta tiếp nhận làm Cứu Chúa của mình.
(4) Sau cùng, chúng ta học biết các mục đích của Đức Chúa Trời thường đạt được qua sự chịu khổ, và các mục đích của Đức Chúa Trời trong sự chịu khổ của chúng ta thường không thể hiện ngay lập tức đâu. Mọi sự chịu khổ, bất tiện, và bất an do chiếu chỉ của Sêsa gây ra không được nhìn nhận là bàn tay tể trị của một Đức Chúa Trời yêu thương, Ngài đã bày tỏ ra các mục đích của Ngài, theo một phương thức vì ích cho người nào biết chịu khổ. Chúng ta hãy tiếp thu từ Mary và Giôsép những nỗi khổ đau dường như là “đời thường” trong cuộc sống hầu như là những công cụ trong tay của Đức Chúa Trời, là những điều mà thời gian hay cõi đời đời sẽ làm sáng tỏ cho chúng ta.